NÂNG CAO KỸ NĂNG GIẢNG DẠY CÁC HỌC PHẦN PHÁP LUẬT TẠI KHOA LUẬT, TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

30/08/2023

ThS. Mai Thị Mai Hương

Khoa Luật, Trường Đại học Duy Tân

Tiến trình hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC hình thành cuối năm 2015) đem lại những cơ hội và thách thức lớn cho thị trường lao động Việt Nam chủ yếu tập trung vào tám ngành nghề đòi hỏi tay nghề lao động: kế toán, kiến trúc sư, y tá, bác sĩ, nha sĩ, kỹ sư, vận chuyển và du lịch. Việt Nam đang nỗ lực hướng đến đào tạo nhóm lao động có kỹ năng thấp và trung bình đáp ứng các tiêu chuẩn lao động quốc tế theo như những dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) trong thời gian chuyển biến sắp đến. Trước những đòi hỏi cấp thiết của toàn xã hội về nguồn nhân lực có trình độ, có đủ năng lực để giải quyết những vấn đề ngày càng phức tạp trong thực tiễn, hàng loạt các chương trình và giải pháp giáo dục được đưa ra góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tại các bậc học, đặc biệt là trong hệ thống các trường cao đẳng, đại học. Qua quá trình công tác tại Khoa Luật, Đại học Duy Tân, đảm nhận giảng dạy các học phần pháp luật, tôi xin đưa ra một số quan điểm cá nhân về đổi mới phương pháp giảng dạy và các biện pháp nâng cao kỹ năng giảng dạy ứng dụng đối với học phần pháp luật.

Tiên liệu sự dịch chuyển lao động tự do qua lại giữa mười nước thuộc khối ASEAN khi tham gia Cộng đồng kinh tế AEC, lao động Việt Nam phải cạnh tranh không chỉ với lao động các nước này mà còn trong chính thị trường lao động Việt Nam, quy luật đào thải diễn ra mạnh mẽ thì mục tiêu đào tạo là: kỹ năng lành nghề, tư duy nhanh nhạy, trình độ nhận thức cao. Trong đó, mảng tư duy pháp lý được cung ứng từ các học phần pháp luật không kém phần quan trọng. Học phần pháp luật giúp các sinh viên nâng cao hiểu biết pháp lý, văn hóa pháp lý và tinh thần thượng tôn pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước thời buổi “muốn nhập gia thì phải tùy tục”. Nắm vững khối lượng kiến thức pháp luật học tập, tạo hình sinh viên xử lý các tình huống thực tế phát sinh, có thái độ ứng xử theo đúng quy định pháp luật đồng thời có ý thức tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm minh, bởi “nhất cử vô luật” nếu muốn tương tác với các yếu tố bên ngoài quốc gia.

Dạy và học dù ở bất kì thời đại nào, ứng dụng bất kì phương pháp nào, suy cho cùng nó cũng là quá trình tương tác giữa thầy và trò. Một trong những phương pháp dạy – học mới song song tồn tại với các phương pháp dạy học khác như: phương pháp tình huống, phương pháp thảo luận, tranh luận, phương pháp sắm vai…) được các chuyên gia giáo dục, các giảng viên có thâm niên trong ngành đánh giá cao, được thực tiễn khẳng định là đã phát huy được nhiều thế mạnh trong việc đào tạo là phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực, hướng vào sinh viên, giảng viên là người hỗ trợ. Lấy việc tập trung vào hoạt động của sinh viên làm nền tảng, những nét đổi mới cơ bản của phương pháp này hướng vào hai nhân vật với một số đòi hỏi riêng trong quá trình dạy và học.

- Vai trò của giảng viên: giảng viên, trong giờ dạy - học, đóng vai trò là người dẫn dắt, định hướng, gợi mở vấn đề chứ không thuyết giảng chủ yếu như trước đây. Tùy từng tình huống cụ thể mà giảng viên là người hướng dẫn sinh viên học tập, trao đổi với sinh viên, giải đáp những thắc mắc của sinh viên về những kiến thức đề cập trong bài học, đồng thời là người khuyến khích sinh viên sáng tạo, tự bổ sung cho bài đã học bằng vốn tri thức tiếp thu từ các nguồn khác nhau như sách, báo, đời sống… Đối với những ý kiến, những bài viết, vấn đáp có nhiều ý tưởng mới của sinh viên, giảng viên nên đưa ra lời khen ngợi hay khuyến khích bằng nhiều cách (cộng điểm, cho điểm cao...).

- Vai trò của sinh viên: sinh viên phải là người chủ động tự học, tự chuẩn bị bài trước khi đến lớp, năng động, sáng tạo trong giờ học tại lớp, biết phát huy vốn kiến thức của mình để xây dựng bài học mới, mạnh dạn nêu những thắc mắc hoặc trao đổi mở rộng bài học với giảng viên, chủ động nêu ý kiến cá nhân trong khi tìm hiểu hoặc học bài xong, biết vận dụng các vấn đề từ bài học vào những trường hợp tương tự.

Những phần việc kể trên không chỉ khiến cho sinh viên trở thành nhân vật trung tâm trong lớp học mà còn tạo cho sinh viên có cơ hội để hoàn toàn chủ động trong suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện vấn đề từ bài học thông qua sự dẫn dắt của giảng viên, từ đó sinh viên có khả năng làm chủ các kiến thức thu nhận được, biết vận dụng chúng một cách linh hoạt vào cuộc sống, công tác sau này. Còn đối với giảng viên, thông qua cách dạy trên, vừa cung cấp cho sinh viên những tri thức nền tảng vừa giúp giảng viên có khả năng tư duy, có năng lực hành động năng động và mạnh mẽ. Theo logic này, muốn biến quá trình học tập của sinh viên thành quá trình tự tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh tri thức mới, giảng viên phải biết tổ chức điều khiển sinh viên thực sự tham gia vào hoạt động học tập một cách linh hoạt.

Trong quá trình giảng dạy học phần Pháp luật, toàn thể giảng viên cũng như Khoa Luật phải hoạch định kế hoạch hướng tới một số công việc cụ thể trong nhận thức và hành động dưới đây:

Thứ nhất, tôi cho rằng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, về nguyên tắc phải có một chiến lược đồng bộ từ những vấn đề ở tầm vĩ mô đến những vấn đề cụ thể như mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học… Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực chỉ là một bộ phận của chiến lược đó. Như trao đổi về phương pháp  giảng dạy tích cực theo hướng trên chỉ mới đạt ở mức tạo điều kiện để sinh viên được suy nghĩ nhiều hơn, nói nhiều hơn, làm nhiều hơn, hạn chế tối đa việc sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với cách dạy chủ đạo thầy giảng, sinh viên nghe và ghi chép. Tuy nhiên, nhằm khắc phục những bất cập như: chương trình giảng dạy, tài liệu học tập, phương tiện dạy học, cơ sở vật chất… chưa đáp ứng được việc đổi mới đồng bộ, nhà trường từng bước hỗ trợ tạo điều kiện cho cả giảng viên lẫn sinh viên.

Thứ hai, muốn đáp ứng được yêu cầu trên, trong quá trình dạy học, giảng viên phải tạo ra được sự tác động qua lại giữa vốn kinh nghiệm đã có của sinh viên với các vấn đề pháp luật mà bài học đặt ra. Giảng viên bằng nhiều cách huy động và sử dụng tối đa vốn kinh nghiệm của sinh viên trong việc vận dụng luật để giải thích, xử lý, đánh giá các tình huống pháp luật, phán đoán và lựa chọn những hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực pháp luật. Bên cạnh đó, giảng viên cũng phải đưa ra được các bài tập tình huống có tính phức tạp, độ khó ở mức độ vừa phải so với tư duy của sinh viên… để sinh viên tập giải quyết theo vốn tri thức và kinh nghiệm mà bản thân sinh viên tích lũy được trong quá trình tự nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật. Cách dạy học như vậy sẽ tạo cơ hội để các em kiểm chứng, trắc nghiệm vốn hiểu biết trong quá trình tự học cũng như vốn kinh nghiệm của mình trong cuộc sống. Ở đây, tính độc lập, năng động, tự giác trong việc chiếm lĩnh tri thức mới, khắc sâu những tri thức pháp luật đã học của sinh viên sẽ có cơ hội phát huy ở mức độ cao hơn.

Giảng viên cũng rất chú trọng tới việc đưa ra những tình huống, những vấn đề điển hình, chứa đựng nhiều mâu thuẫn và có thể có nhiều hướng giải quyết khác nhau trong bài học trên lớp. Đây là một trong những đặc trưng chủ yếu của giờ học đổi mới theo hướng tích cực. Đặc trưng này giữ vai trò chủ đạo trong dạy học tích cực vì, theo quy luật chung, “tư duy chỉ bắt đầu khi và ở nơi xuất hiện tình huống có vấn đề”. Tình huống của những vấn đề độc đáo mà bài học đặt ra không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với việc thu hút trí tuệ, tình cảm, suy nghĩ, kích thích các em suy nghĩ, giải thích, phân tích phán đoán mà còn là cơ sở giúp các em lựa chọn được những phương án giải quyết tốt nhất, đáp ứng được yêu cầu áp dụng luật vào những tình huống tương tự trong tương lai. Những tình huống có vấn đề được nêu trong bài học mà giảng viên chủ động lựa chọn từ trước phải là những tình huống chứa vấn đề điển hình, đòi hỏi sinh viên phải huy động toàn bộ năng lực sẵn có, phải cố gắng đạt tới một trình độ kinh nghiệm pháp luật cao hơn mới giải quyết được chúng. Có thể nói, học và thảo luận qua những tình huống có chứa vấn đề cao là một trong những cách tốt nhất giúp sinh viên trưởng thành nhanh chóng ở nhiều mặt.

Tuy nhiên, khi giảng viên đưa ra tình huống để thảo thuận thì không tránh khỏi việc nhiều sinh viên không hứng thú với các vấn đề khó. Trong một lớp học thì năng lực học tập của mỗi sinh viên là không giống nhau, giảng viên cần nắm rõ các đối thượng này, có thể kết hợp thành nhóm riêng, hoặc kết hợp chung với những sinh viên có năng lực khá giỏi, từ đó có những biện pháp kích thích tư duy từ thấp đến cao đối với các sinh viên này.

Thứ ba, việc thường xuyên khuyến khích sinh viên thể hiện quan điểm lập trường riêng về một vấn đề pháp luật trong giờ học. Những quan điểm ấy phải được các em thể hiện bằng những ý kiến cụ thể, theo cách hiểu và diễn đạt riêng của mình. Vấn đề không phải ở chỗ sinh viên đồng ý hay không đồng ý, tán thành hay không tán thành, đúng hay sai mà là ở chỗ ý kiến của sinh viên phải có sự phân tích, giải thích, lập luận rõ ràng, khúc chiết, được công khai tranh luận, qua đó làm lộ rõ được mục đích bảo vệ quan điểm lập trường riêng của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, cho dù đây chỉ là giả định nhưng các ý kiến riêng của sinh viên vẫn phải nằm trong và phù hợp với các qui định của pháp luật. Chính sự lý giải, tranh luận giữa các ý kiến đó sẽ là cơ sở làm cho sinh viên hiểu kỹ, hiểu sâu và lĩnh hội tốt tri thức hơn. Nếu việc làm này được tiến hành thường xuyên hơn, có kết quả tốt hơn, chúng ta sẽ tạo ra cho xã hội một lớp trí thức ngành luật kế cận vừa có bản lĩnh, có quan điểm lập trường vững vàng vừa có tinh thần dân chủ cao trong thực tiễn hoạt động pháp luật.

Để kết hợp và phát huy tối đa những điều nói trên, tôi thấy không thể không duy trì, phát triển không ngừng mối quan hệ giao tiếp sư phạm thân thiện, dân chủ, bình đẳng, tự nguyện giữa giảng viên và sinh viên. Trong giờ học tích cực, giảng viên với vai trò là người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, gợi mở tạo điều kiện để học sinh bộc lộ và trao đổi ý kiến của mình, sao cho mọi ý kiến đều được đưa ra xem xét, tranh luận công khai một cách tự nhiên, cởi mở.

Giảng viên ngoài việc giới thiệu tài liệu cho sinh viên tham khảo còn phải xây dựng được từ trước nhiều tình huống có vấn đề khác nhau buộc sinh viên phải suy nghĩ. Từ các câu trả lời của sinh viên trên lớp, giảng viên phải tiếp tục tạo ra các tình huống mới và hướng dẫn các sinh viên tìm ra những cách khác nhau trong việc tiếp cận, giải quyết thỏa đáng các tình huống đó. Cuối cùng, giảng viên sẽ tổng hợp, chốt lại các vấn đề, làm rõ những yêu cầu cần phải đạt được của bài học.

Bên cạnh việc vận động của giảng viên thì cần có sự kết hợp của sinh viên. Công việc của mỗi sinh viên phải có bước chuẩn bị trước ở nhà, phải tự giác nghiên cứu tài liệu trước, trên lớp thì phải chủ động nắm bắt kiến thức.

Thứ tư, để đảm bảo thực hiện phương pháp giảng dạy tích cực như đã nêu, mỗi giảng viên cần tiến thành các bước sau:

+ Chuẩn bị tốt nội dung và nắm vững mục tiêu giảng dạy;

+ Quản lý trật tự lớp tốt, phân chia nhóm hoạt động theo năng lực hoặc theo tính chất bài học;

+ Đưa ra các tình huống điển hình, mâu thuẫn kích thích gợi mở tư duy;

+ Đưa ra các gợi ý dựa vào hướng suy nghĩ của sinh viên;

+ Giải quyết tình huống mẫu có tính chất tương tự;

+ Tổng hợp lý luận và cách giải quyết vấn đề;

+ Áp dụng các biện pháp khuyến khích sinh viên.

Như vậy, có thể khẳng định đây là một trong những phương pháp dạy học mới có tính tiềm tàng cao, lấy sinh viên làm đối tượng trung tâm mà giảng viên phải hướng đến, có tác động tích cực đến sinh viên.

Thứ năm, việc đổi mới phương pháp giảng dạy học phần pháp luật cũng cần có những biện pháp nâng cao kỹ năng giảng dạy ứng dụng, đơn cử như những công việc sau:

+ Sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ giảng dạy: trình chiếu video các tình huống pháp luật, hình ảnh ví dụ minh họa thực tiễn, slide biểu diễn chủ yếu bằng sơ đồ, tổ chức mô hình tình huống pháp luật, mô hình trò chơi điện tử… đòi hỏi mỗi giảng viên tự nỗ lực trau dồi kiến thức công nghệ thông tin ở cấp độ nâng cao, đặc biệt là sự hỗ trợ giữa các giảng viên trong bộ môn luật để xây dựng mô hình tình huống chuẩn cho sinh viên.

+ Chủ động đi thực tế ít nhất 1 năm 1 lần tại các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước (sở tư pháp, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, ủy ban nhân dân,…). Thực tế và lý thuyết song hành với nhau, thực tế ngoài việc củng cố kiến thức đã có, còn kiểm chứng gợi mở những hướng đi trong nghiên cứu lâu dài cho giảng viên chẳng hạn những vấn đề bỏ ngõ của pháp luật, hay việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

+ Cộng tác với các cá nhân, tổ chức ngoài trường trong nhiều hoạt động pháp lý: viết báo, tham gia tranh tụng, tư vấn cộng đồng, tham dự hội thảo… Những kiến thức góp nhặt thực tế tôi luyện lập trường và nâng cao kỹ năng giảng dạy, bản thân giảng viên xử lý thông thạo các tình huống thực tiễn thì mỗi bài học được đưa ra trên lớp cũng giống lời truyền dạy kinh nghiệm, sinh động và thu hút sinh viên hơn nhiều so với một tiết học lý thuyết suông, đáp ứng được sự thỏa mãn của sinh viên.

Trong chiến lược đổi mới phương pháp giảng dạy nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu hội nhập Cộng đồng kinh tế AEC, chúng tôi là lực lượng giảng viên trẻ, vừa nỗ lực học hỏi, trau dồi kinh nghiệm đứng lớp, vừa hoạch định  thực hiện từng bước phương pháp đổi mới trong giảng dạy, kết hợp các biện pháp nâng cao kỹ năng giảng dạy ứng dụng đối với học phần pháp luật nhằm đạt được các mục tiêu chung về nhận thức, thái độ, kỹ năng cần thiết đối với nguồn nhân lực đào tạo đáp ứng yêu cầu đặt ra trong thời cuộc sắp đến.