Bàn về khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại

14/12/2023

1. Khái niệm hợp đồng thương mại

⚜️ Số Hợp Đồng Là Gì? Đánh Số Hợp Đồng Như Thế Nào Là Đúng Và Logic

Điều 385 BLDS 2015 đã đưa ra khái niệm hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng có bản chất là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong xã hội. Hợp đồng là căn cứ pháp lý phổ biến làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế chủ yếu được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng (còn gọi là hợp đồng thương mại) – giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại là cách thức cơ bản để thực hiện hiệu quả các hoạt động kinh tế.

Pháp luật Việt Nam hiện hành không đưa ra định nghĩa về hợp đồng thương mại mà chỉ quy định khái niệm chung về hợp đồng tại Điều 385 BLDS 2015. Với phạm vi áp dụng của BLDS 2015, các quy định về hợp đồng được áp dụng cho tất cả các hợp đồng hình thành trong tất cả các lĩnh vực, trong đó bao gồm cả hoạt động thương mại. Do đó, những vấn đề cơ bản về hợp đồng thương mại như: Giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu… được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự. Bên cạnh đó, xuất phát từ những đặc điểm riêng của hợp đồng thương mại, một số vấn đề pháp lý về hợp đồng thương mại như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, chế tài và giải quyết tranh chấp… được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật về thương mại bao gồm LTM 2005, Luật Kinh doanh bất động sản 2014, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022, Luật Du lịch 2017…

Từ những phân tích trên, có thể hiểu hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong hoạt động thương mại. Trong đó, hoạt động thương mại bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. 

2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại

Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng thương mại

Chủ thể tham gia của hợp đồng thương mại phải là thương nhân hoặc có ít nhất một bên là thương nhân. Theo khoản 1 Điều 6 LTM 2005 quy định thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Trong đó, tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp được thành lập hoạt động theo LDN 2020 (DNTN, công ty CP, công ty TNHH, công ty HD); hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã; các tổ chức kinh tế thành lập theo luật đầu tư kinh doanh. Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh đó chính là hộ kinh doanh. Do đó, thương nhân bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và hộ kinh doanh. Có những quan hệ hợp đồng thương mại đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân (hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại…); bên cạnh đó có những hợp đồng thương mại chỉ yêu cầu ít nhất một bên là thương nhân (hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa…).

Thứ hai, về hình thức của hợp đồng thương mại

Hình thức của hợp đồng thương mại được thể hiện bằng: văn bản, lời nói và hành vi vì bản chất của hợp đồng thương mại cũng là một dạng của hợp đồng dân sự nhưng nó mang yếu tố lợi nhuận. Do đó khi các chủ thể kinh tế mong muốn xác lập mối quan hệ trong kinh doanh với đối tác thì có quyền lựa chọn các hình thức của hợp đồng để giao kết, đây được thể hiện nguyên tắc tự do thỏa thuận của hợp đồng các bên có quyền thỏa thuận với nhau về một hình thức hợp đồng cụ thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng bằng hình thức văn bản (hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, hợp đồng tín dụng…). Ngoài ra, quy định của LTM 2005 cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức văn bản truyền thống bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản như: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Nếu không bảo đảm điều kiện về hình thức thì nó sẽ ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của hợp đồng, có thể bị vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức hợp đồng. Do đó khi các bên giao kết hợp đồng cần phải xem xét các điều kiện quy định của pháp luật rằng giao dịch này có bắt buộc về hình thức của hợp đồng hay không.

Thứ ba, mục đích của hợp đồng thương mại

Mục đích lợi nhuận là đặc trưng của các giao dịch thương mại do các bên của hợp đồng đều hướng đến lợi ích thu lợi nhuận từ việc thực hiện hợp đồng thương mại. Các điều khoản trong hợp đồng thương mại cũng nhằm hướng các bên tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, một bên của hợp đồng thương mại không hướng đến mục đích lợi nhuận. Đó là hợp đồng được giao kết giữa thương nhân với bên không phải là thương nhân và không nhằm mục đích sinh lợi. Về nguyên tắc những hợp đồng này chỉ trở thành hợp đồng thương mại khi bên không phải là thương nhân, không nhằm mục đích sinh lợi lựa chọn LTM điều chỉnh. Nếu bên đó không lựa chọn LTM thì BLDS sẽ điều chỉnh quan hệ hợp đồng này và đây là hợp đồng dân sự.

Vì vậy, để phân biệt đó là hợp đồng thương mại hay dân sự thì cần chú ý đến chủ thể giao kết hợp đồng, mục đích mà các chủ thể hướng đến có mong muốn tìm kiếm lợi nhuận hay không, hay chỉ nhằm thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt bình thường.