CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP (Phần 2)

16/04/2019

CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP (Phần 2)

Trần Võ Như Ý- Khoa Luât, Đại học Duy Tân

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

2.1 Các thành tựu trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2.1.1 Về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế

Thứ nhất, đối với việc xây dựng chiến lược phát triển, lần đầu tiên tại Việt Nam, hai chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã lần lượt ra đời trong tiến trình của công cuộc đổi mới, đó là: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 10 năm 1991 - 2000 và Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa 10 năm 2001- 2010.

Do có định hướng đúng, Nhà nước ta đã thành công trong việc thực hiện về cơ bản mục tiêu thoát khỏi khủng hoảng vào năm 1996. Kết thúc chiến lược này năm 2000, GDP đã đạt gấp 2,07 lần năm 1991. Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ chỗ không đáng kể đã đạt mức 27% GDP. Định hướng quan trọng của Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa 10 năm 2001 - 2010 là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Kết quả giai đoạn 2001- 2005 tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế luôn đạt mức năm sau cao hơn năm trước; xuất khẩu đạt tốc độ cao  gấp hơn 2,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP; đời sống của nhân dân ổn định và được nâng nên đáng kể.

Thứ hai, Nhà nước đã tiến hành đổi mới kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể là Nhà nước từ bỏ kế hoạch hóa theo hệ thống sản phẩm vật chất và chuyển sang hệ thống tài khoản quốc gia. Theo cơ chế mới, kế hoạch Nhà nước mang tính hướng dẫn và gián tiếp, gắn với hiệu quả và lợi ích kinh tế, khuyến khích các đơn vị kinh tế phát huy tính năng động, sáng tạo để làm giàu, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nội dung quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là những dự án, chương trình, trong đó chương trình, dự án ở tầm quốc gia được chuyển thành nội dung của kế hoạch cả nước. Mỗi chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều   có  những  mục  tiêu,  nhiệm  vụ cụ thể, được hoạch định các nguồn lực, phương tiện để thực hiện. Nhà nước xác định vai trò quyết định trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là kế hoạch 5 năm, trong đó kế hoạch hằng năm là kế hoạch điều hành để thực hiện kế hoạch 5 năm.

2.1.2 Về đảm bảo môi trường pháp lý và các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước

Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, pháp luật là công cụ quan trọng thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. Bằng pháp luật, Nhà nước thừa nhận, hướng dẫn cho phép, ngăn cấm, khuyến khích, hạn chế nhằm đảm bảo cho các quan hệ kinh tế tồn tại và phát triển. Nhà nước khuyến khích các yếu tố tích cực của thị trường như cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ môi trường, người lao động, đồng thời ngăn cấm các yếu tố tiêu cực như độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn thuế…Pháp luật trong nền kinh tế thị trường không chỉ là công cụ của Nhà nước mà còn là phương tiện của các chủ thể kinh tế tự bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa vụ:

- Pháp luật quy định chế độ sở hữu mới và cơ cấu lại nền kinh tế với nhiều thành phần cùng phát triển, cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật.

- Pháp luật xác định cơ cấu chủ thể trong kinh tế thị trường và tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới.

- Pháp luật quy định cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển các loại thị trường; đồng thời điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế như quy định về quyền và nghĩa vụ, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền của các tổ chức, cá nhân; quy định cơ chế xử lý các vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp trong hoạt động kinh tế.

Để thực hiện chức năng kinh tế, Nhà nước sử dụng nhiều loại công cụ chính sách kinh tế vĩ mô nhằm điều tiết và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh các công cụ kế hoạch hoá và hệ thống pháp luật để quản lý nền kinh tế, Nhà nước còn sử dụng chính sách tài chính, tiền tệ qua các công cụ như vốn, thuế, lãi suất, bảo hiểm trợ cấp…dưới tác động đòn bẩy kinh tế nhằm điều tiết hiệu quả nền kinh tế thị trường. Nhà nước xoá bỏ việc cấp phát vốn cho các doanh nghiệp, giải quyết thâm hụt ngân sách theo hướng thị trường và mở rộng hoạt động thị trường chứng khoán; đổi mới và vận dụng linh hoạt các công cụ lãi suất nhằm thúc đẩy sản xuất, kiềm chế, đẩy lùi lạm phát và những phát sinh không lành mạnh trong việc cung và cầu về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.

2.1.3 Về xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế - xã hội

Đối với kết cấu hạ tầng kỹ thuật, Nhà nước tiến hành quy hoạch tổng thể và chiến lược quốc gia về phát triển hạ tầng nhằm huy động các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở; ban hành quy hoạch tổng thể về đầu tư, về phân vùng phát triển kinh tế, trên cơ sở đó xác định rõ các công trình đầu tư phát triển trọng điểm, ưu tiên.

Đối với kết cấu hạ tầng xã hội, Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các loại hình dịch vụ phục vụ trực tiếp cho kết cấu hạ tầng xã hội như: dịch vụ tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, giáo dục, y tế, du lịch, văn hóa, thể thao...Thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện chuyển hướng đầu tư, trong đó giảm đầu tư vào khu vực sản xuất kinh doanh, tăng đầu tư vào giao thông, thủy lợi, điện, nước, đô thị, giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao. Trong cơ cấu vốn đầu tư công cộng của kế hoạch 2001 - 2005, vốn ngân sách nhà nước và tín dụng nhà nước đã được hoạch định khá cao vào lĩnh vực khoa học và công nghệ (96%), nông nghiệp (73%), giáo dục đào tạo (73%), giao thông và bưu điện (65%).

2.1.4 Về kiểm tra, giám sát nền kinh tế

Nhằm thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nền kinh tế, thời gian qua nhà nước đã tập trung nâng cao chất lượng xây dựng, kiểm tra, thanh tra và giám sát việc tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực về kinh tế - xã hội. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc bất thường, đồng thời nhà nước quy định chế độ kiểm tra riêng, chặt chẽ hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trên quy mô lớn hoặc kinh doanh trong lĩnh vực kinh tế đặc thù (ngân hàng, bảo hiểm...) hay lĩnh vực kinh doanh dễ phát sinh độc quyền hoặc ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

2.1.5 Về hoạt động điều tiết thu nhập, đảm bảo bình đẳng xã hội, khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường.

Mục tiêu công bằng và bình đẳng xã hội mà chúng ta hướng tới đó là: đảm bảo công bằng về cơ hội việc làm, bình đẳng trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển, công bằng về nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước, bình đẳng về hưởng thụ các thành quả phát triển chung thông qua các chế độ phúc lợi công cộng, các dịch vụ công kết hợp với chính sách xã hội cho các đối tượng ưu tiên.

Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành và sửa đổi nhiều luật thuế mới đảm bảo sự hài hoà lợi ích giữa ba chủ thể: người lao động - doanh nghiệp - Nhà nước như: Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế xuất khẩu nhập khẩu, Luật ngân sách nhà nước, Luật thuế thu nhập cá nhân…, đồng thời thực hiện việc điều chỉnh hệ thống tiền lương, thành lập quỹ bảo hiểm xã hội... Một trong những chính sách rõ nét nhằm đảm bảo bình đẳng xã hội là Nhà nước đã quan tâm đến chính sách xoá đói giảm nghèo và khuyến khích người dân làm giàu chính đáng, nổi bật là việc giao đất, giao rừng cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài và không phải trả tiền sử dụng đất; việc cho vay với lãi suất thấp hoặc không lãi suất để người nghèo có vốn tạo công ăn việc làm...

2.1.6 Về việc vận dụng các nguyên tắc, phương pháp quản lý kinh tế và các điều kiện bảo đảm thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước

Trong quá trình quá trình quản lý vĩ mô nền kinh tế, căn cứ vào tình hình thực tế của nền kinh tế, xu hướng vận động, biến đổi và phát triển của các quan hệ kinh tế, các cơ quan quản lý kinh tế đã lựa chọn, kết hợp hài hòa các nguyên tắc quản lý kinh tế cũng như các phương pháp quản lý kinh tế để bảo đảm cho các hoạt động kinh tế theo quỹ đạo và đúng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, và mục tiêu quản lý nền kinh tế quốc dân là đảm bảo tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng kinh tế.

Các hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô của nước ta sẽ không thể đạt được những thành tựu to lớn nếu thiếu vai trò của các điều kiện bảo đảm như chính trị, pháp lý, kinh tế, văn hóa - xã hội. Do đó, Đảng và Nhà nước ta xác định phải củng cố hệ thống chính trị, việc phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo đảm ổn định chính trị, không ngừng xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao nhận thức pháp lý của các cá nhân, doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, thương mại khi Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới.

2.1.7 Về các cơ quan thực hiện chức năng kinh tế và đội ngũ cán bộ, công chức quản lý kinh tế

Tại Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược cải cách tổng thể hành chính nhà nước 2001-2010, Chính phủ đã xây dựng được nhiều  văn bản luật như các Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân  và Ủy ban nhân dân, Luật thanh tra, Luật công chức; các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, cấp huyện đã được ban hành theo hướng giảm tối đa sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ, phân biệt rõ hoạt động của cơ quan hành chính với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã được giảm dần từ giảm số lượng từ 26 Bộ và cơ quan ngang Bộ xuống còn 22 Bộ và cơ quan ngang Bộ và cơ cấu, tổ chức của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương cũng đã được thay đổi cho phù hợp.

Vấn đề nâng cao, trình độ của các cán bộ, công chức quản lý kinh tế của nhà nước cũng đã được quan tâm, đầu tư thích đáng và là một trong những vấn đề trọng tâm của quá trình cải cách hành chính nhà nước. Chính phủ đã có nhiều chế độ, chính sách tiền lương tạo điều kiện thuận lợi, động lực cho cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ; và thông qua việc đào tạo, đào tạo lại các cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà nước những kiến thức, phương pháp quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường, tạo điều kiện và cử nhiều cán bộ đi học, tập huấn ở nước thì trình độ, sự am hiểu về nền kinh tế thị trường của cán  bộ, công chức quản lý kinh tế đã được cải thiện rõ rệt, đáp ứng đựơc yêu cầu quản lý, điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

2.1.8 Về tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nước

Những thành tựu của các doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đó là: Tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển; là lực lượng quan trọng, thể hiện sức mạnh quốc gia trong lĩnh vực kinh tế khi ký kết, hợp tác kinh tế quốc tế; góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước, đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước; nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở huy động, tập trung các nguồn lực sản xuất, đầu tư trong các ngành, lĩnh vực then chốt đòi hỏi công nghệ cao và nhu cầu vốn lớn; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế quốc dân, cung cấp các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế, ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát và thực hiện các chương trình an sinh xã hội.

2.2 Các hạn chế, bất cập trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bên cạnh những thành tựu to lớn trên các phương diện của đời sống kinh tế- xã hội, việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước vẫn còn những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực hệ thống pháp luật kinh tế và các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô; tổ chức, hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng kinh tế và đội ngũ cán bộ, công chức quản lý kinh tế và trong tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.

Một là, những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật kinh tế và các công  cụ quản lý kinh tế vĩ mô

Mặc dù đã ban hành rất nhiều luật có tính đặc trưng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường như luật kinh doanh bất động sản, luật sở hữu trí tuệ, luật chứng khoán, luật kiểm toán…nhưng hệ thống pháp luật kinh tế vẫn còn chứa đựng nhiều bất cập, hạn chế, cụ thể là:

- Hệ thống pháp luật kinh tế vẫn chưa đồng bộ, để thi hành được các luật phải cần đến rất nhiều các nghị định, thông tư, chỉ thị hướng dẫn để thi hành; các văn bản pháp luật còn chưa rõ ràng, thiếu minh bạch, còn mâu thuẫn, chồng chéo;

- Hệ thống pháp luật kinh tế thường xuyên thay đổi, không có tính ổn định cao và không có tính dự báo, dự đoán được các diễn biến của thị trường; các quy định của luật kinh tế còn mang nhiều tính thủ tục hành chính chưa phù hợp với cơ chế tự do kinh doanh, thương mại trong nền kinh tế thị trường.

- Các chế tài đối với các hành vi phạm các quy định trong hoạt động kinh doanh, thương mại chưa đủ mạnh để răn đe, định hướng các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại theo quỹ đạo, mục tiêu  phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; việc thực thi pháp luật kinh tế chưa có hiệu quả cao; việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại còn kéo dài, gây mất niền tin và ảnh hưởng đến tâm lý tuân thủ, chấp hành pháp luật của các cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh.

Nhà nước đã sử dụng linh hoạt các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách kiểm soát giá cả... để điều tiết nền kinh tế trước những biến đổi không ngừng của kinh tế thế giới  nhưng nhà nước vẫn còn kiểm soát, hạn chế và cấm kinh doanh và kinh doanh có điều kiện nhiều lĩnh vực dẫn đến tổn thất kinh tế, lãng phí tài nguyên và kìm hãm các lực lượng kinh tế phát triển. Các chính tài chính, chính sách tiền tệ được áp dụng thể hiện năng lực dự báo hạn chế của các cơ quan quản lý kinh tế, sự phản ứng chính sách thường "gấp gáp", "đuổi theo thị trường" và tạo nên những cú sốc đối với thị trường.

Hai là, những hạn chế, bất cập trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng kinh tế và đội ngũ cán bộ, công chức quản lý kinh tế

Trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng kinh tế vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trong việc xác định vị trí, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ thể của quản lý kinh tế, là người giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Do yêu cầu của nền kinh tế thị trường là bộ máy quản lý kinh tế phải tinh gọn, nhanh nhạy, đa năng và làm việc hiệu quả nên chúng ta phải sáp nhập một số bộ, ngành để thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý. Tập trung, thống nhất một số lĩnh vực quản lý nhưng lại nảy sinh vấn đề chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn  giữa các bộ và cơ cấu tổ chức bên trong các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ. Sự phối kết hợp giữa các cơ quan, bộ phận sau khi sáp nhập chưa thực sự đạt hiệu quả đã dẫn đến tình trạng vướng mắc, kéo dài trong việc giải quyết những yêu cầu của cá nhân, doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh, thương mại.

Mặc dù trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý kinh tế đã được đào tạo, nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triễn kinh tế của đất nước và do xu hướng hội nhập và phát triễn kinh tế thị trường nhanh khiến đội ngũ cán bộ, công chức chưa có đủ thời gian để tiếp thu, cập nhật các kiến thức mới và cũng chưa có thực tiễn nên đã xảy ra những sai sót trong việc thực hiện chứng năng kinh tế.

Ba là, những hạn chế, bất cập trong quản lý các doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nước

Các tập đoàn kinh tế Việt Nam được thành lập dựa trên các tổng công ty có quy mô chưa lớn, yếu kém trong quản lý, quen với cơ chế bao cấp chưa thích nghi với môi trường kinh tế thị trường đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém gây thất thoát và lãng phí tài sản quốc gia được nhà nước giao phó cho các tập đoàn.

 Hơn nữa, vẫn chưa có một cơ chế pháp lý hoàn thiện, đồng bộ để tạo hành lang hoạt động cho các tập đoàn kinh tế hoạt động; chưa có các quy định pháp lý về tổ chức, hoạt động, quy mô của các tập đoàn kinh tế cho nên các tập đoàn hoạt động trải rộng trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề không đúng với mục đích, nhiệm vụ của mình; chưa tách bạch rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng của chủ sở hữu nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế.

2.3 Những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2.3.1 Yêu cầu về việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước

Sự hình thành tư duy về nền kinh tế thị trường là quá trình tìm tòi thử nghiệm, tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta hơn 30 năm qua, kết hợp với tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường quốc tế, sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, quy luật phát triển chung của kinh tế thị trường vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là vấn đề lý luận, vừa là vấn đề thực tiễn mới mẻ, gắn bó giữa nhận thức tính quy luật khách quan, sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động.

Tính khách quan trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có đặc trưng quan trọng là định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng đó trong quá trình phát triển kinh tế đất nước không chỉ dừng lại ở tư tưởng, đường lối chung của Đảng, mà còn phải thể chế hóa thành những nội dung, chính sách, mục tiêu cụ thể, xác định không ai ngoài Nhà nước phải đảm đương trách nhiệm ấy. Chức năng của Nhà nước là điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu cao cả là giải phóng con người, giải phóng xã hội và giai cấp theo lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế khách quan đối với mọi quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới tiến tới nhất thể hóa thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi nền kinh tế của quốc gia là một bộ phận không thể tách rời. Việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta hiện nay không nằm ngoài xu thế đó thể hiện ở quan điểm, chủ trương về mở rộng quan hệ ngoại giao, hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, chế độ chính trị và cùng nhau phát triển. Yêu cầu đặt ra có tính nguyên tắc và mục tiêu trong việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiện nay thích ứng với điều kiện mới. Cụ thể là:

- Cần phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của toàn cầu hóa và vấn đề hội nhập, không nóng vội, chủ quan hội nhập bằng mọi giá hoặc chậm trễ mà bỏ lỡ thời cơ.

- Việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiện nay không thể xuất phát từ những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế mà phải trở thành chính sách chủ động, đồng thời giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tiến hành cải cách toàn diện theo các chuẩn mực quốc tế để bắt kịp với các xu hướng phát triển của thế giới, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.

- Nhà nước xúc tiến xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 để chủ động hơn trong quá trình hội nhập và hội nhập mới thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế - xã hội của đất nước.

2.3.2 Phương hướng hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

Cần phải nhận thức rằng phát triển kinh tế thị trường vừa là vấn đề khoa học, vừa là vấn đề chính trị, vấn đề lựa chọn chế độ kinh tế và mô hình phát triển trong thực tiễn cách mạng, đòi hỏi sự nhất trí cao trong nhận thức tư tưởng, thống nhất trong tổ chức thực hiện và hành động, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế trong thực hiện chức năng điều khiển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Cần tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu những quan điểm tiến bộ, vượt qua những rào cản, định kiến về nền kinh tế thị trường và nhận thức không đúng về vai trò kinh tế của nhà nước. Điều đó thể hiện ở sự nhạy bén, năng động và kịp thời đề ra những chính sách quan trọng phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội đầy biến động.

Cần đảm bảo nội dung khoa học, tính dân chủ, công khai trong quá trình nghiên cứu lý luận để xây dựng các mô hình, phương án và  ban hành những chính sách quan trọng trong phát triển kinh tế, trong đó không thể thiếu sự tham mưu, tư vấn của các nhà khoa học, các chuyên gia, đặc biệt là cần tổ chức rộng rãi việc tham gia ý kiến của các tổ chức và cá nhân.

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm về kinh tế thị trường ở một số nước sẽ giúp chúng ta có cách đánh giá, vận dụng và thực hiện hiệu quả chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Thực hiện chức năng kinh tế gắn với đảm bảo bình đẳng xã hội và phát triển bền vững.

Cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bình đẳng xã hội trong phát triển kinh tế. Nhà nước điều chỉnh lại chính sách phân phối thu nhập trên cơ sở mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước, có thể sử dụng nhiều công cụ để thực hiện vai trò điều tiết trong phân phối thu nhập như thuế, ngân sách, tín dụng nhà nước và hệ thống an sinh xã hội.

Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bình đẳng xã hội còn thể hiện chức năng của Nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công. Nhà nước cần tăng chi tiêu cho cả giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội khác, đồng thời đảm bảo cho mọi người được bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ đó. Nhà nước nên tạo điều kiện để khai thác tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân trong việc hỗ trợ Nhà nước cung ứng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội.

Tăng trưởng trong nền kinh tế thị trường cần phải đi đôi với việc phát triển bền vững. Nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật, thuế, điều lệ hoặc chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên...để kiểm soát mức độ nguy hiểm đối với môi trường sinh thái

2.3.3 Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức năng kinh tế của nhà nước Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, hoàn thiện chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế

Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác phân tích, đánh giá, dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Cần khắc phục nhược điểm trong công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội đó là ôm đồm quá nhiều mục tiêu, theo đó tập trung cho những mục tiêu hiệu quả và phát triển bền vững.

Đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội theo hướng nâng cao chất lượng quy hoạch bằng cách nâng vị trí pháp lý của văn bản ban hành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lên tương đương với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội 10 năm cần lược bỏ sự trùng lặp các nội dung được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, thay vào đó là định hướng cho việc quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội các vùng, các ngành có vai trò chiến lược, có căn cứ khoa học, có tầm nhìn dài hạn, được công khai hóa và thu hút sự đóng góp ý kiến của đông đảo nhân dân.

Đổi mới cách thức thông qua và phê duyệt kế hoạch, đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện kế hoạch. Cần có kế hoạch tổng thể cho vực kinh tế nhà nước theo hướng tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp hoạt động công ích, phát triển mạnh các lĩnh vực hạ tầng cơ sở; giữ các vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế; giải quyết những vướng mắc trong việc thực thi những chính sách cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước.

Thứ hai, hoàn thiện chức năng xây dựng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường

Đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế cần tiến hành cải cách đồng bộ trong cả hoạt động xây dựng, ban hành cũng như thực thi pháp luật trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế:

- Khẩn trương xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế đầy đủ và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Cần sớm ban hành những văn bản dưới luật đảm bảo thực thi nhanh và đúng đắn các Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư... Xây dựng  mặt bằng luật pháp cho các loại hình doanh nghiệp, theo đó tất cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều bị điều chỉnh bởi một luật chung không để quy định tản mạn như hiện nay là: Luật doanh nghiệp chung thay thế các Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác xã...,Luật đầu tư chung thay cho Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước...; Xúc tiến xây dựng và ban hành Luật thuế chống bán phá giá, Luật kinh doanh bất động sản, Luật chống đầu cơ, Luật chi ngân sách nhà nước, Luật về quy hoạch, kế hoạch...

- Tiến hành có hiệu quả việc rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật và văn bản hiện hành để kịp thời phát hiện và sửa đổi những chồng chéo, bổ sung những văn bản còn thiếu, chưa phù hợp, đặc biệt là chưa phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, trước mắt là các nguyên tắc của WTO.

- Chủ động nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các mô hình, hình thức pháp lý cho các loại thị trường, các giao dịch kinh tế.

- Tiến hành hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế, tranh chấp lao động, giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

Tiến hành đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính:

- Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của các công cụ tài chính đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt là công cụ thuế, ngân sách, tín dụng... Nhà nước tạo sự bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp được ưu đãi, miễn, giảm thuế, cải cách chính sách thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai minh bạch; coi trọng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả và hợp lý trong việc sử dụng và phân bổ các nguồn vốn, nhất là ngân sách nhà nước.

- Đối với chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước cần theo dõi sát việc thực hiện các văn bản, thể lệ, chế độ đã ban hành, phát hiện sớm những vướng mắc để sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tiễn.

- Đối với chính sách thương mại, nhà nước cần xác định các cân đối lớn như tổng cung - tổng cầu, tiền - hàng, xuất khẩu - nhập khẩu; nghiên cứu và dự đoán tốt những biến động của thị trường trong và ngoài nước để định hướng và điều tiết các hoạt động thương mại của các doanh nghiệp.

Thứ ba, hoàn thiện chức năng xây dựng hệ thống hạ tầng hỗ trợ cho nền kinh tế

Trên cơ sở bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước cần tiến hành ưu tiên ngân sách và các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng của từng vùng và trên phạm vi cả nước; khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển vào lĩnh vực này, chú trọng các công trình quan trọng, thiết yếu và khắc phục tình trạng đầu tư giàn trải, lãng phí, kém chất lượng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ưu tiên phát triển hạ tầng thị trường, đó là: hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, giao dịch, hệ thống bến bãi, kho hàng và các dịch vụ khác như điện, nước, trường học, y tế...

Thứ tư, hoàn thiện chức năng xây dựng bộ máy nhà nước phục vụ quản lý hiệu quả nền kinh tế thị trường

Cần sắp xếp, kiện toàn lại bộ máy nhà nước để tăng cường quản lý kinh tế trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Bộ máy nhà nước cần có sự thay đổi căn bản theo hướng tách bạch và phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cải cách tòa án phải hướng đến việc giải quyết được mọi tranh chấp xuất hiện trong đời sống, trong nền kinh tế thị trường với sự phức tạp và đa dạng của các mối quan hệ xã hội.

Cùng với quá trình hoàn thiện các cơ quan bảo vệ pháp luật, cần tiến hành đổi mới chất lượng hoạt động của các tổ chức giúp đỡ pháp lý như văn phòng luật sư, công chứng, các trung tâm tư vấn và dịch vụ pháp lý...

Cần tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thuận tiện, tạo ra môi trường cho các quan hệ kinh tế diễn ra một cách dễ dàng, tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Tăng cường về trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức trong nền kinh tế thị trường; thực hiện chế độ tuyển chọn cán bộ, công chức một cách dân chủ, công khai, tránh hình thức và đảm bảo chất lượng.