0236.3650403 (128)

Một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025


Một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025

1. Bỏ 2 loại văn bản quy phạm pháp luật của cấp xã:

Theo Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm 14 loại văn bản pháp luật, trong đó không còn 02 loại văn bản: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã, Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.

2. Thay Chương trình lập pháp cho Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 

Từ 01/4/2025, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 quy định về Chương trình lập pháp (thay cho tên gọi Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh).

Điều 24 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 quy định Chương trình lập pháp hằng năm của Quốc hội.

Theo đó, căn cứ Định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội hoặc yêu cầu giải quyết vấn đề bất cập, phát sinh từ thực tiễn (nếu có), Ủy ban Thường vụ Quốc hội tự mình đề xuất xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu Quốc hội (sau đây gọi chung là cơ quan trình) gửi tờ trình đề xuất xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước ngày 01 tháng 8 hằng năm để đưa vào Chương trình lập pháp của năm tiếp theo.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định Chương trình lập pháp của năm tiếp theo trước ngày 01/10 hằng năm trên cơ sở tờ trình đề xuất của cơ quan trình.

3. Quy định trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cơ quan ban hành văn bản

Trên cơ sở Quy định 69-QĐ/TW năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương, Quy định 178-QĐ/TW năm 2024 của Bộ Chính trị, khoản 10 Điều 68 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 đã bổ sung quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật.

Cụ thể, người đứng đầu của cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm trực tiếp:

- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật;

- Khi để xảy ra tình trạng trình hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền chậm tiến độ, trái pháp luật; để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật của người do mình trực tiếp quản lý, giao nhiệm vụ;

- Chịu trách nhiệm liên đới trong trường hợp đã giao cấp phó của mình trực tiếp phụ trách công tác xây dựng pháp luật;

- Kết quả thực hiện công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức do mình đứng đầu; kết quả thực hiện là căn cứ để đánh giá, xét thi đua khen thưởng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại.

Ngoài ra, cơ quan, tổ chức, người đứng đầu và công chức để xảy ra hành vi vi phạm, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật tại cơ quan, tổ chức, phạm vi công việc mình được phân công trực tiếp quản lý, phụ trách thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý trách nhiệm hoặc được xem xét loại trừ, miễn hoặc giảm trách nhiệm theo quy định của Đảng và quy định của pháp luật.

4. Giải thích áp dụng văn bản trong trường hợp chưa thống nhất

Theo Điều 60 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025, việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, Nghị quyết không được làm thay đổi nội dung quy định được giải thích và được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

- Có cách hiểu khác nhau về quy định của văn bản;

- Chưa thống nhất việc áp dụng các văn bản (bổ sung)

Việc giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết từ 01/4/2025 phải bảo đảm thực hiện theo thứ tự các nguyên tắc, tiêu chí sau đây:

- Phù hợp với nghĩa phổ thông của từ ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật đó;

- Căn cứ vào quá trình xây dựng nội dung liên quan đến quy định cần giải thích;

- Phù hợp với quan điểm chỉ đạo, mục đích, tinh thần ban hành văn bản;

- Bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.

5. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

Theo Điều 53 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 được quy định như sau:

- Thời điểm có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương; không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.

Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn và trong trường hợp đặc biệt có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành; đồng thời phải được đăng tải ngay trên công báo điện tử, cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành và đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng.

- Văn bản quy định chi tiết phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản giao quy định chi tiết hoặc thời điểm có hiệu lực của nội dung được giao quy định chi tiết.