Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản và ý nghĩa của Hiến pháp Việt Nam năm 2013
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp Việt Nam năm 2013
Hiến pháp năm 1992, ra đời trong bối cảnh đất nước đang trong tiến trình thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra và đã đạt được những thành tựu quan trọng. Sau gần 20 năm thi hành, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1992 đã bộc lộ những bất cập nhất định, những bất cập đó cần phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc để sửa đổi, bổ sung vừa đảm bảo phù hợp với thực tiễn Việt Nam, vừa đảm bảo với xu thế hội nhập quốc tế.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này đặt ra yêu cầu nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992 – đạo luật cơ bản của Nhà nước, phù hợp với tình hình mới, tạo cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước. Vì vậy, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII (tháng 8/2011) đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng làm Chủ tịch.
Ngay sau khi được thành lập, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội cho ý kiến. Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 38/2012/QH13 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố để lấy ý kiến nhân dân. Hoạt động này đã được các cấp, các ngành triển khai sâu rộng, nghiêm túc, thu hút được sự tham gia tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, thực sự là đợt sinh hoạt chính trị – pháp lý dân chủ, sâu rộng trong cả hệ thống chính trị. Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội thông qua. Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 được ban hành là sự kiện chính trị – pháp lý có tính lịch sử, mở ra một thời kỳ mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Nội dung của Hiến pháp Việt Nam năm 2013
Hiến pháp năm 2013 có Lời nói đầu, 11 chương với 120 Điều giảm 1 chương và 27 Điều so với Hiến pháp năm 1992.
Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 được xây dựng trên cơ sở chắt lọc, lựa chọn ý tứ, từ ngữ để nêu bật được một cách ngắn gọn, súc tích tinh thần, nội dung của Hiến pháp, phản ánh được truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, những mốc lịch sử quan trọng, thành quả cách mạng to lớn mà Nhân dân ta đã đạt được. Ngay từ Lời nói đầu, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ mục tiêu dân chủ và khẳng định chủ quyền Nhân dân trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chương I. “Chế độ chính trị” được xây dựng trên cơ sở sửa đổi tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 (Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Chế độ chính trị) và gộp với Chương XI của Hiến pháp năm 1992 (Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh). Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa, khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định trong Hiến pháp năm 1992, đồng thời làm rõ hơn đầy đủ và sâu sắc hơn các vấn đề sau đây:
– Khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời (Điều 1).
– Tiếp tục thể hiện xuyên suốt, nhất quán quan điểm “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”, nhưng bổ sung điểm mới quan trọng là: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” (Điều 2).
– Kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ bản của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, đồng thời bổ sung và phát triển nguyên tắc: “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Đây là điểm mới quan trọng của Hiến pháp năm 2013 vì lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, vấn đề “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận trong Hiến pháp.
– Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp”. Theo đó Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước không chỉ thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như đã quy định trong Hiến pháp năm 1992.
– Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm của Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Như vậy, Hiến pháp đã quy định rõ trách nhiệm chính trị – pháp lý của Đảng đối với Nhân dân. Bên cạnh đó Hiến pháp năm 2013 không chỉ khẳng định các tổ chức của Đảng mà còn quy định trách nhiệm của Đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
– Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là có sở chính trị của chính quyền Nhân dân, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, đồng thời bổ sung vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, giám sát phản biện xã hội… Bên cạnh đó, Hiến pháp có sự bổ sung, phát triển quan trọng trong việc quy định: “Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” (Điều 9).
– Tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 về Công đoàn, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung vai trò, trách nhiệm của Công đoàn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước. Điều 10 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Chương II. “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” được xây dựng trên cơ sở sủa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) thành chương: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và đặt trang trọng sau Chương I – Chế độ chính trị. Sự thay đổi tên gọi và bố cục này nhằm khẳng định, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng, Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Chương III. “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường” được xây dựng trên cơ sở gộp Chương II – Chế độ kinh tế và Chương III – Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992.
Về kinh tế, Hiến pháp năm 2013 làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế, vai trò quản lý Nhà nước, tài sản công thuộc sỡ hữu toàn dân, việc quản lý và sử dụng đất đai và bổ sung quy định về quản lý, sử dụng Ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác. Hiến pháp năm 2013 quy định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật
Về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, Hiến pháp năm 2013 kế thừa những nội dung về từng lĩnh vực này trong Hiến pháp năm 1992 nhưng được thể hiện một cách tổng quát, mang tính nguyên tắc không quy định những vấn đề cụ thể, bên cạnh đó còn quy định một số vấn đề mới như chính sách lao động, chính sách y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân, chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường…
Chương IV. “Bảo vệ Tổ quốc” được xây dựng trên cơ sở giữ nội dung và bố cục Chương IV của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 xác định bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, phải được thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Hiến pháp năm 2013 khẳng định và làm sâu sắc hơn vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sự gắn kết giữa nhiệm vụ đối ngoại và quốc phòng, an ninh trong việc xây dựng đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện nghĩa vụ quốc tế và góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Có một điểm mới nổi bật ở chương này là quy định lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước (Điều 65).
Từ chương V đến chương X quy định về bộ máy nhà nước. Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp năm 2013 định danh và làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xác định rõ hơn chức năng, thẩm quyền của cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này; bổ sung một số thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cơ bản được giữ như quy định của Hiến pháp năm 1992, đồng thời có sửa đổi, bổ sung một số vấn đề như sau: Quy định chức năng của Quốc hội ngắn gọn hơn, theo đó Quốc hội có 3 chức năng: Thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước; sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội; quy định một số chức danh do Quốc hội bầu: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp; sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội theo đó Ủy ban thường vụ Quốc hội không còn thẩm quyền công bố và chủ trì việc bầu cử Đại biểu Quốc hội như quy định tại Hiến pháp năm 1992…
Chương VI. “Chủ tịch nước” được xây dựng trên cơ sở giữ nội dung và bố cục Chương VII của Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 2013 quy định sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định mới về Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch có quyền trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh, trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định; quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
Chương VII. “Chính phủ” quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về Chính phủ và bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
Hiến pháp năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của của Chính phủ như sau: Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 96 của Hiến pháp; trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70 của Hiến pháp. Chính phủ không còn quyền thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như quy định trước đây
Chương VIII. “Tòa án nhân dân” quy định tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp và quy định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân. Về tổ chức Tòa án nhân dân không có quy định các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự như trước đây. Điều này mở ra khả năng thành lập các Tòa án khu vực theo chủ trương cải cách tư pháp. Hiến pháp năm 2013 không quy định việc thành lập các tổ chức thích hợp ở cơ sở để giải quyết các tranh chấp nhỏ trong nhân dân như trong Hiến pháp năm 1992. Về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân có những sửa đổi, bổ sung như sau: Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
Chương VIII. “Viện kiểm sát nhân dân” quy định tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân không có quy định các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự như trước đây.
Chương IX. “Chính quyền địa phương” được xây dựng trên cơ sở đổi tên Chương IX – Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 và có những sửa đổi , bổ sung như sau:
– Quy định thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
– Quy định chính quyền địa phương một cách linh hoạt phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
– Hiến pháp đã quy định rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong tình hình mới.
Chương X “Hội đồng bầu cử quốc gia Kiểm toán Nhà nước” quy định hai cơ quan mới trong bộ máy Nhà nước.
Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Tổng Kiểm toán nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán nhà nước, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán nhà nước do luật định. Tổng Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. (Điều 118).
Chương XI “Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp”. Hiến pháp năm 2013 có quy định mới so với các bản Hiến pháp trước đây: “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (Điều 119). Hiến pháp năm 2013 quy định quy trình sửa đổi Hiến pháp cụ thể và rõ ràng hơn so với Hiến pháp năm 1992. Cụ thể là: Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. (Điều 120). Quy định này mở ra khả năng trưng cầu ý dân về Hiến pháp.
3. Ý nghĩa của Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 được ban hành là một sự kiện chính trị – pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của Việt Nam.
Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 có ý nghĩa vô cùng to lớn. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trên mọi mặt của đời sống xã hội, khẳng định quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng và kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Hiến pháp năm 2013 là nền tảng pháp lý, chính trị vững chắc cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tạo cơ sở hiến định để tiến hành công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình mới. Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh đổi mới về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo đảm các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị và cải cách bộ máy nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu sắc và toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng và an ninh quốc gia, địa vị pháp lý của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền Nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân. Đây là quan điểm nền tảng xuyên suốt nội dung của Hiến pháp năm 2013, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích, sức mạnh của quyền lực Nhà nước ta là ở Nhân dân, thuộc về Nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định mạnh mẽ “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Ngay từ Lời nói đầu đã long trọng tuyên bố nhân dân Việt Nam là chủ thể “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như trước đây, mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, bằng quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Vai trò đó do lịch sử lựa chọn, giao phó, được Nhân dân thừa nhận và được Hiến pháp công nhận. Hiến pháp năm 2013 làm rõ hơn và sâu sắc hơn bản chất tiên phong, bản chất nhân dân của Đảng và bổ sung một yêu cầu rất quan trọng của bản chất nhân dân, đó là “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Hiến pháp năm 2013 đã ghi dấu ấn vào lịch sử lập hiến của nước nhà, viết tiếp những trang mới đầy hy vọng, khơi dậy niềm tin mãnh liệt của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Hiến pháp năm 2013 đã phản ảnh ý chí, nguyện vọng của nhân dân ta. Ý Đảng, lòng dân được hòa quyện sâu sắc. Đó là bảo đảm về chính trị, pháp lý vững chắc cho toàn thể dân tộc ta, đất nước ta vượt qua những khó khăn, thách thức của thời kỳ mới, vững bước tiến vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được khẳng định và đề cao trong Hiến pháp năm 2013. Đó là sự thể hiện nhận thức mới đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc Nhà nước “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”; “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”.
Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều quy định mới về bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như: quy định về việc kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xác định rõ hơn vị trí, chức năng của các cơ quan nhà nước và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; quy định việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước…
Việc quy định kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm xác định rõ hơn trách nhiệm chính trị của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; hạn chế, phòng ngừa nguy cơ lạm dụng quyền lực nhà nước của các cơ quan Nhà nước và của những người có trách nhiệm trong các cơ quan Nhà nước. Quy định này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI.
Một số sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý quan trọng để sửa đổi hệ thống các cơ quan nhà nước. Việc sửa đổi tổ chức Tòa án nhân dân là cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành cải cách tư pháp, xây dựng Tòa án sơ thẩm khu vực theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Việc sửa đổi tổ chức chính quyền địa phương mở ra khả năng xây dựng chính quyền địa phương một cách linh hoạt phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
Việc Hiến pháp quy định thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia thể hiện đầy đủ hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử.
Kiểm toán Nhà nước đã và đang hoạt động, nhưng lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp, thể hiện vị trí, vai trò của cơ quan này, từng bước tạo sự kiểm soát độc lập việc quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công. Việc nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước phù hợp với xu thế chung của thế giới cũng như mong muốn góp phần giảm tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước.
Những sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp năm 2013 về bộ máy Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.