0236.3650403 (128)

Điểm mới của Nghị định 226/2025/NĐ-CP về đất đai từ 15/8/2025


1. HĐND tỉnh quyết định tăng/giảm giá các loại đất theo thực tế

Theo đó, khoản 11 Điều 1 Nghị định 226/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 20 Nghị định 71/2024/NĐ-CP như sau:

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định 71/2024 về xác định vị trí đất trong xây dựng bảng giá đất và tình hình thực tế tại địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tiêu chí cụ thể để xác định vị trí đối với từng loại đất, số lượng vị trí đất trong bảng giá đất đồng thời với việc quyết định bảng giá đất.

Đối với thửa đất, khu đất có yếu tố thuận lợi hoặc kém thuận lợi trong việc sử dụng đất, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa phương để quy định tăng hoặc giảm mức giá đối với một số trường hợp sau:

- Đất thương mại, dịch vụ, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương mại, dịch vụ có khả năng sinh lợi cao, có lợi thế trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ; đất nông nghiệp trong khu dân cư, trong địa giới hành chính phường; đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở;

- Thửa đất ở có các yếu tố thuận lợi hơn hoặc kém thuận lợi hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất so với các thửa đất ở có cùng vị trí đất trong bảng giá đất.

Như vậy từ 15/8/2025, HĐND tỉnh bên cạnh căn cứ xác định vị trí đất trong xây dựng bảng giá đất cần căn cứ tình hình thực tế để quy định tiêu chí cụ thể để xác định vị trí đối với từng loại đất, số lượng vị trí đất trong bảng giá đất đồng thời với việc quyết định bảng giá đất.

Trước đây, HĐND tỉnh được quy định tăng hoặc giảm mức giá chỉ cần căn cứ xác định vị trí đất trong xây dựng bảng giá đất

Bên cạnh đó, quy định mới bổ sung “đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở” vào nhóm đất có thể tăng/giảm mức giá.

Ngoài ra, trước đây chỉ nêu “mức giá cao hơn” (tăng) với nhóm đất thương mại, dịch vụ, đất nông nghiệp trong khu dân cư, Nghị định 226/2025 quy định rõ có thể tăng hoặc giảm theo thực tế các loại đất.

 

2. Bổ sung quy định về bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất

Nghị định số 226/2025/NĐ-CP bổ sung Điều 14a vào sau Điều 14 Nghị định 88/2024/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như sau:

- Trường hợp bồi thường đối với cây lâu năm là loại cho thu hoạch nhiều lần quy định tại khoản 2 Điều 103 Luật Đất đai mà không xác định được sản lượng vườn cây còn chưa thu hoạch tương ứng với số năm còn lại trong chu kỳ thu hoạch thì mức bồi thường được tính bằng giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây.

- Trường hợp khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét ban hành đơn giá bồi thường thiệt hại về cây trồng, vật nuôi quy định tại khoản 6 Điều 103 Luật Đất đai mà chưa có quy trình sản xuất cây trồng, vật nuôi được cấp có thẩm quyền ban hành thì căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương để ban hành.

Trước đây, tại Nghị định số 88/2024/NĐ-CP chưa quy định về bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi nhà nước thu hồi đất  mà chỉ quy định việc bồi thường đối với:

Nhà, công trình xây dựng khác quy định tại điểm b khoản 2 Điều 102 của Luật Đất đai

Trường hợp nhà, công trình xây dựng khác, công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, tài sản khác là tài sản công

3. Chính thức bãi bỏ quy định về khung giá đất theo Nghị định 96/2019/NĐ-CP

Căn cứ tại Điều 9 Nghị định 226/2025/NĐ-CP quy định cụ thể như sau:

Nghị định 226/2025/NĐ-CP  có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2025.

- Các quy định sau đây hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành:

Nghị định số 96/2019/NĐ-CP quy định về khung giá đất;

Nghị định số 26/2021/NĐ-CP  về việc quy định chi tiết một số điều của Nghị quyết số 132/2020/QH14  thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế.

Như vậy, từ ngày 15/8/2025, Nghị định 96/2019/NĐ-CP quy định về khung giá đất sẽ hết hiệu lực, Chính thức bãi bỏ quy định của Chính phủ về khung giá đất.