MỘT VÀI VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN (KỲ 5 – KỲ CUỐI)

07/09/2018

5.3. Pháp luật với quyền con người và quyền công dân

Đảm bảo bằng pháp luật là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng để các quyền con người và quyền công dân được thực hiện. Khi trở thành quyền pháp định, quyền con người và quyền công dân là ý trí chung của xã hội, được xã hội phục tùng, được quyền lực nhà nước bảo vệ. Quyền con người và quyền công dân khi pháp luật ghi nhận sẽ trở thành quyền độc lập đối với bất kì uy quyền nào, kể cả các cơ quan các viên chức nhà nước cấp cao nhất. Tư tưởng về quyền con người và quyền con người và quyền công dân phải được bảo đảm bằng pháp luật ra đời sớm. Ngay vào thế kỉ 6 TCN, một nhà thông thái Hi Lạp đã quan niệm: “ta giải phóng tất cả mọi người bằng pháp luật”. Ngay sau khi cách mạng tử sản thành công, tư tưởng về quyền con người con người phải đảm bảo bằng pháp luật được thể hiện đậm nét ở các tuyên ngôn và Hiến pháp xuất hiện sau các cuộc cách mạng tư sản (tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948). Hiện nay, ở mọi quốc gia trên thế giới, với các mục đích và mọi hình thức khác nhau Hiến pháp các nước điều có các chế định về định vị pháp lý của công dân

          Mặt khác, việc đảm bảo quyền con người và quyền công dân còn được thể hiện qua sự phối hợp của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng các cơ chế pháp lý quốc tế về bảo vệ quyền con người

5.4. Dân trí, thông tin với quyền con người và quyền công dân

Quyền con người và quyền công dân được đảm bảo và thực hiện phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí của mỗi quốc gia. Trong xã hội công dân phải có trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa chính trị-pháp lý chỉ có trên nền tri thức đó công dân mới tự giác đấu tranh và thực hiện các quyền của mình.Đồng thời cũng trên cơ sở văn hóa như vậy con người mới điều chỉnh được hành vi của mình theo pháp luật. Điều đó phải tiến hành cải cách nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục nhằm bồi dưỡng năng lực làm chủ của công dân.

 Cùng với hệ thống giáo dục, hệ thống thông tin cũng phải được đổi mới nâng cao vai trò của báo chí, làm cho báo chí thực sự trở thành một phương tiện quyền lực của nhân dân, đặc biệt trên lĩnh vực chống tiêu cực, tệ nạn xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân

5.5. Kinh tế với quyền con người và quyền công dân

         Trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện sinh hoạt vật chất mang tính quyết định đối với việc thực hiện và mở rộng các quyền con người. Cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật, con người có điều kiện phát triển tự do và toàn diện, làm chủ bản thân mình và cộng đồng xã hội. Chính vì thế cần phải chú trọng và phát triển kinh tế để đảm bảo quyền con người và quyền công dân.

Với những tiêu chí trên hiện nay trên thế giới các quốc đang tiến hành hoàn thiện các thể chế pháp luật để đảm bảo quyền con người và quyền công dân. Việt Nam cũng là một nước không  phải là ngoại lệ và đang ngày càng phát triển và từng bước hoàn thiện pháp luật qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 để bảo đảm quyền con người và quyền công dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và phát huy cùng với đó thay đổi bổ sung một số điều khoản để quyền con người, quyền công dân được đảm bảo thực hiện có hiệu quả hơn trước được thể hiện qua những khía cạnh sau :

  • Thứ nhất: Công dân và mọi người được hưởng các quyền con người một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) các quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật.

Điều 51 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Việc quy định như thế đã gây hiểu nhầm là Hiến pháp và pháp luật (hay Nhà nước) là những chủ thể sản sinh ra các quyền con người. Cách hiểu như thế không phù hợp với nhận thức chung về quyền con người trên thế giới. Theo quan điểm của cộng đồng quốc tế, mọi thành viên của nhân loại khi sinh ra đã mặc nhiên có tư cách chủ thể của các quyền con người. Các nhà nước chỉ có thể thừa nhận (bằng Hiến pháp và pháp luật) các quyền đó như là những giá trị vốn có của mọi cá nhân mà nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy.

Kế thừa Hiến pháp năm 1946 và tinh hoa tư tưởng nhân loại, trong Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1, Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.

Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế độ chính trị.Trong Hiến pháp năm 2013, chế định về quyền con người, quyền công dân được đưa lên Chương II, ngay sau chương chế định về chế độ chính trị (so với vị trí thứ 5 trong Hiến pháp năm 1992). Đây không chỉ đơn thuần là kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh sự thay đổi trong nhận thức lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, đã đi đến khẳng định: Nhà nước được lập ra là để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân; việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế độ chính trị.

  • Thứ hai: Thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa để bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Về thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa, Chương III của Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội, y tế, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, phát triển con người (từ Điều 57 đến Điều 60); đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định (Điều 57).

Về phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ, cùng với việc chế định quyền trong lĩnh vực này, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đồng thời xác định những mục tiêu và định hướng chính trong việc phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ (Điều 61, 62).

Về môi trường, cùng với việc chế định quyền trong lĩnh vực này, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 63).

  • Thứ ba: Thể chế tư pháp để bảo đảm quyền con người, quyền công dân

 Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định về cấm truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân (Điều 71). Đến Hiến pháp năm 2013, ở Điều 20, lần đầu tiên trong lịch sử Hiến pháp nước ta, đã chế định về cấm tra tấn nói riêng và cấm bất kỳ hình thức bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của mọi người. Quy định này cụ thể, rõ ràng và rộng hơn so với quy định cũ, cả về hành vi bị cấm, cả về chủ thể được bảo vệ.

Hiến pháp năm 1992, tại Điều 72, quy định quyền tố tụng công dân chỉ gồm: suy đoán vô tội; bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan sai trong tố tụng; xử lý nghiêm minh người làm trái pháp luật trong thi hành tố tụng gây thiệt hại cho người khác. Hiến pháp năm 2013 bổ sung: xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị kết án hai lần vì một tội phạm; quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (Điều 31). Quy định mới này đã mở rộng chủ thể và phạm vi quyền đòi bồi thường thiệt hại; đồng thời buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải công bằng và khách quan trong việc tìm chứng cứ, coi trọng cả chứng cứ buộc tội, cả chứng cứ gỡ tội.

Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định công dân “có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013, ở Điều 25, thay chữ “được” bằng cụm từ “tiếp cận”. Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp, để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.

  • Thứ tư: Xác định đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Trong khi Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 mới chỉ ghi nhận nghĩa vụ tôn trọng thì Hiến pháp năm 2013 ghi nhận cả bốn nghĩa vụ của Nhà nước về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) quyền con người (Điều 3 và Điều 14), tương tự như sự xác định ở Lời mở đầu của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1948).

Hiến pháp năm 2013 tái khẳng định quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân và bổ sung: “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28). Việc bổ sung này đã ràng buộc nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân; qua đó, bảo đảm để quyền này của người dân được thực hiện trong thực tế.

  • Thứ năm: Chế định những công cụ hữu hiệu và quy định việc thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định.

Hiến pháp năm 2013 chế định những công cụ hữu hiệu cho việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đó là Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, và sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Khoản 2, Điều 119 khẳng định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Đây là quy định có tính nguyên tắc nhằm thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định một cách hiệu quả và ở mức cao nhất.

Yêu cầu thể chế hóa các quyền hiến định trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Thứ nhất, thể chế hóa các quyền hiến định, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam và trên cơ sở Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, giữ vai trò quyết định khung khổ và cấu trúc của toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia. Một mặt, mỗi quyền hiến định có thể được thể chế hóa thành một luật hoặc bộ luật (như quyền lao động), nhưng cũng có thể liên quan đến nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Mặt khác, với việc ban hành Hiến pháp mới, nhiều quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành có thể không còn phù hợp. Vì thế, phải thể chế hóa các quyền hiến định, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam theo và trên cơ sở Hiến pháp năm 2013.

Thứ hai, bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền. Hầu hết các Hiến pháp hiện hành trên thế giới chỉ quy định những quyền cơ bản (mặc dù quan niệm về các quyền cơ bản là rất khác nhau giữa các quốc gia). Vì thế, có một số quyền con người, tuy không được chế định trong Hiến pháp, nhưng có thể được quy định trong các văn bản pháp luật khác của quốc gia. Do đó, nếu không thể chế hóa các quyền hiến định thì có thể gây ra hiểu nhầm rằng, những quyền hiến định quan trọng hơn và cần được ưu tiên bảo đảm thực hiện hơn so với các quyền không được hiến định.

Thứ ba, cụ thể hóa các quyền hiến định để thực hiện được trên thực tế. Nhìn chung, có nhiều quyền hiến định rất khó thực hiện được trên thực tế. Ví dụ, quyền tiếp cận thông tin quy định ở Điều 25 của Hiến pháp năm 2013, trong khi Điều 21 của Hiến pháp này mới chủ yếu quy định phạm vi thông tin (về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình) và nội dung thông tin (thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác) trong quyền được bảo vệ thông tin. Theo Luật Nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, quyền tiếp cận thông tin thường bao gồm ba quyền phái sinh là: quyền được thông tin, quyền được tìm kiếm thông tin, quyền được phổ biến thông tin. Do đó, cần xây dựng luật để bảo đảm đầy đủ quyền tiếp cận thông tin, trên cơ sở đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013.

Thứ tư, thể chế hóa những quyền không được hiến định. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam và tất cả các Hiến pháp trên thế giới không thể liệt kê được đầy đủ hệ thống các quyền, vì các quyền cũng vận động, biến đổi cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, và cũng không cần thiết phải làm như vậy. Do đó, phải thể chế hóa các quyền chưa được và không cần thiết phải hiến định thành các văn bản pháp luật, như cấm chế độ nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động; quyền của người không quốc tịch; quyền đình công; quyền biểu tình; quyền lao động của người vị thành niên; quyền nghỉ ngơi;…

(Hết)