HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
ThS Mai Thị Mai Hương
Khoa Luật - Trường Đại học Duy Tân
1. Đặt vấn đề
Hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam hiện nay tương đối phù hợp với quy định thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS), Nghị định thư sửa đổi Hiệp định TRIPS, Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP, tên cũ là Hiệp định TPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (Hiệp định EVFTA). Quốc hội đã ban hành và sửa đổi các văn bản pháp luật về Sở hữu trí tuệ: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019); Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và các văn bản liên quan khác làm cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không tránh khỏi những thiếu sót, những điểm bất hợp lý, chưa phù hợp, một số vấn đề mới mà Việt Nam chưa quy định.
2. Những bất cập trong quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay
Thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử bộc lộ những bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật.
Một là, một số khái niệm mang tính trừu tượng được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ chưa được giải thích, hướng dẫn cụ thể. Khoản 2 Điều 213 quy định “Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt…”, thuật ngữ “khó phân biệt” chưa được giải thích cụ thể, trong khi các điều luật khác đặc biệt là Điều 129 quy định về hành vi xâm phạm nhãn hiệu lại sử dụng thuật ngữ “trùng” hoặc “tương tự”. Các cơ quan có chức năng xử lý xâm phạm hiểu không thống nhất về cùng một thuật ngữ dẫn đến cách giải quyết khác nhau.
Hai là, văn bản quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ chưa có sự đồng nhất về thuật ngữ pháp lý. Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ là “Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ” trong khi nội dung quy định hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu (giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý) và hàng hóa sao chép lậu, không quy định hàng hóa giả mạo về kiểu dáng công nghiệp, trong khi Khoản 1 Điều 126 quy định hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp là sử dụng kiểu dáng công nghiệp không khác biệt với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ tương tự như khái niệm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu nhưng không được xem là hàng hóa giả mạo kiểu dáng công nghiệp.
Các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả bị xử lý hành chính theo Điểm đ Khoản 7, Khoản 8 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP, tuy nhiên Nghị định này lại sử dụng thuật ngữ “giả mạo bao bì” “giả mạo nguồn gốc xuất xứ” “giả mạo tên thương mại, tên thương phẩm, mã số, mã vạch” mà không sử dụng các thuật ngữ tương đồng như Luật Sở hữu trí tuệ.
Đối tượng là hàng giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý bị xử lý hình sự theo Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 226 Bộ luật Hình sự, còn hàng sao chép lậu xử lý theo Tội sản xuất, buôn bán hàng giả tại Điều 192 Bộ luật Hình sự, tuy nhiên, về mặt thuật ngữ Bộ luật Hình sự không sử dụng thuật ngữ “hàng giả mạo nhãn hiệu”, “giả mạo chỉ dẫn địa lý”, “hàng sao chép lậu”. Ngoài ra, Điều 226 Bộ luật Hình sự quy định tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, nội dung lại chỉ quy định hành vi xâm phạm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, còn những hành vi xâm phạm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, tên thương mại, bí mật kinh doanh không quy định, được hiểu là hành vi xâm phạm sáng chế, thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, bí mật kinh doanh chỉ bị áp dụng biện pháp hành chính, biện pháp dân sự để xử lý.
Điều này dẫn đến việc thi hành các điều luật xử lý xâm phạm sở hữu trí tuệ dễ bị nhầm lẫn, một số hành vi xâm phạm lại không được xử lý triệt để chẳng hạn hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp.
Ba là, văn bản quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ thiếu đồng bộ. So với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quy định của Luật Sở hữu trí tuệ đã tương thích nhưng Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 thì quyền tự bảo vệ tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ thiếu một biện pháp “yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ”.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử không chỉ do cá nhân thực hiện mà còn có thể do tổ chức thực hiện, chẳng hạn doanh nghiệp sử dụng phần mềm máy tính không được sự cho phép của tác giả. Thể nhân, pháp nhân đều có địa vị pháp lý ngang nhau trước pháp luật, cá nhân hay tổ chức thực hiện hành vi xâm phạm có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại ở Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan Điều 225, Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Điều 226. Tuy nhiên, Điều 212 Luật Sở hữu trí tuệ lại chỉ quy định cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có đủ yếu tố cấu thành thì bị xử lý hình sự, mà không quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại có hành vi vi phạm. Qua đó cho thấy các quy định giữa Luật Sở hữu trí tuệ và Bộ luật Hình sự chưa có sự thống nhất.
Bốn là, một số quy định pháp luật chồng chéo nhau dẫn đến thực thi khó khăn. Hành vi đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng, sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự nhãn hiệu, tên thương mại theo quy định Luật Công nghệ thông tin, Thông tư 24/2015/TT-BTTTT (Khoản 2, Điều 17) được xem là tranh chấp tên miền, các bên tranh chấp lựa chọn giải quyết theo phương thức thương lượng, hòa giải, Tòa án hoặc Trọng tài. Trong khi Điều 130 và Điều 221 Luật Sở hữu trí tuệ hành vi này bị xem là hành vi cạnh tranh không lành mành và bị xử lý bằng biện pháp hành chính theo quy định của Luật Cạnh Tranh. Yếu tố cạnh tranh không lành mạnh được xác định theo Điểm b Khoản 2 Điều 19 Thông tư 11/2015/TT-BKHCN, nếu thỏa mãn các điều kiện này thì bị xử lý hành chính đối với hành vi sử dụng, đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng tên miền quốc gia “.vn”, cá nhân, tổ chức phải chịu hình thức xử phạt chính cảnh cáo hoặc phạt tiền, ngoài ra có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung. Buộc thay đổi, trả lại tên miền, thu hồi tên miền là biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng như hình thức xử phạt bổ sung, nhưng biện pháp này trên thực tế chỉ hữu hiệu đối với việc thu hồi được tên miền quốc gia mà không thu hồi được tên miền quốc tế, bởi vì vấn đề tên miền quốc tế, tranh chấp tên miền đa ngành không phải vấn đề quốc gia mà phải theo thông lệ quốc tế.
Năm là, văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả đã bị thay thế nhưng văn bản cũ vẫn có hiệu lực song song. Nghị định 100/2006/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Bộ luật dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả đã hết hiệu lực, bị thay thế bởi Nghị định 22/2018/NĐ-CP. Nghị định 85/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 100/2006/NĐ-CP ban hành ngày 20 tháng 9 năm 2011, trong khi Nghị định 100/2006/NĐ-CP đã hết hiệu lực thi hành nhưng Nghị định 85/2011/NĐ-CP vẫn còn hiệu lực. Nghị định 85/2011/NĐ-CP tồn tại song song với Nghị định 22/2018/NĐ-CP là không cần thiết, các cơ quan chức năng chỉ cần dựa vào quy định của Nghị định 22/2018/NĐ-CP đã có đủ căn cứ pháp lý để thi hành.
Sáu là, để xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, chủ thể quyền có thể lựa chọn các phương thức sau:
+ Giải quyết giữa hai bên thông qua hòa giải hoặc thương lượng (trực tiếp hoặc gián tiếp);
+ Khiếu nại đến Cục Bản quyền tác giả, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch;
+ Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại của các cơ quan này thì chủ thể quyền có thể yêu cầu cơ quan Thanh tra, cơ quan Công an, cơ quan Quản lý thị trường xử lý vi phạm hành chính;
+ Khởi kiện đến Tòa án nhân dân giải quyết vụ án dân sự, vụ án hình sự;
+ Lựa chọn Trọng tài thương mại để giải quyết.
Nhiều cơ quan khác nhau có cùng thẩm quyền xử lý cùng một vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử, quy định mở này vừa thuận lợi vừa gây khó khăn cho chủ thể quyền. Vì không nhận thức hết hậu quả, không có đủ kiến thức pháp lý để đưa ra quyết định đúng đắn, các chủ thể quyền áp dụng tuần tự nhiều phương thức làm kéo dài thời gian giải quyết vụ việc, nhiều đối tượng lợi dụng thời gian tranh chấp để sử dụng tài sản trí tuệ bất hợp pháp, đến khi giải quyết xong vụ việc, số tiền thu lợi nhiều hơn số tiền chịu phạt, dẫn đến tâm lý thờ ơ, không chấp hành quy định pháp luật, khiến số lượng vụ việc vi phạm vẫn diễn ra rất nhiều đặc biệt đối với các đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan. Nếu cơ quan chức năng giải quyết không kịp thời sẽ không thể ngăn chặn, răn đe và phòng ngừa hành vi vi phạm.
Bảy là, các vụ việc xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam, về nguyên tắc chỉ xử lý xâm phạm đối với những đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ. Công nghệ thông tin phát triển cùng với hệ thống viễn thông, đối tượng sở hữu trí tuệ được số hóa truyền tải lên các phương tiện điện tử, bắt đầu xuất hiện nhiều hình thức mới: nhãn hiệu có âm thanh, quy trình sử dụng mới đối với sản phẩm đã biết (sáng chế), giao diện dùng đồ họa, bố trí màn hình, mã nguồn, mã máy, thuật toán, biểu đồ dữ liệu ẩn… chưa được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ. Các đối tượng sở hữu trí tuệ mới trong thương mại điện tử dễ bị xâm phạm nhưng khó được bảo vệ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ dành cho các đối tượng thông thường đã được quy định.
Tám là, xử lý xâm phạm sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính được các chủ thể lựa chọn do thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Các cơ quan chức năng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ căn cứ vào Nghị định 99/2013/NĐ-CP và Nghị định 131/2013/NĐ-CP, nếu dựa trên mức phạt hành chính theo hai Nghị định này, rất nhiều trường hợp trách nhiệm hành chính không đủ sức ngăn chặn hành vi xâm phạm do mức xử phạt hành chính không tương ứng với khoản lợi bất chính mà chủ thể vi phạm thu được.
Chín là, công tác thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử cho thấy các chủ thể chưa nhận thức đầy đủ và chưa chủ động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thực tiễn xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tại các cơ quan chức năng, hầu hết các vụ việc xâm phạm được giải quyết bằng biện pháp hành chính. Biện pháp dân sự và biện pháp hình sự chưa được thực thi hiệu quả do trình tự thủ tục rườm rà, trình độ chuyên môn về sở hữu trí tuệ của cán bộ tư pháp hạn chế, nghĩa vụ chứng minh của chủ thể còn nặng nề, thời gian giải quyết kéo dài không đáp ứng được nhu cầu trong thương mại của chủ thể. Điều này hoàn toàn khác biệt với các quốc gia khác trên thế giới (Anh, Mỹ, Nhật…) biện pháp dân sự được đánh giá cao. Bản chất của quyền sở hữu trí tuệ vốn dĩ là quyền dân sự, khi bị xâm phạm cần được giải quyết bằng biện pháp dân sự thì các chủ thể Việt Nam lại áp dụng biện pháp hành chính.
3. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử
Qua phân tích những bất cập của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử ở mục 2, pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ luôn cần được điều chỉnh để đáp ứng những thay đổi của môi trường thương mại số, không chỉ pháp luật nội dung mà pháp luật tố tụng cũng cần được sửa đổi, bổ sung.
Thứ nhất, văn bản dưới luật được ban hành phải giải thích cụ thể một số thuật ngữ tạo cơ sở thực thi chính xác, tăng tính phối hợp giữa các cơ quan chức năng, hạn chế tình huống phải trưng cầu giám định, như cần có văn bản giải thích thế nào là “dấu hiệu khó phân biệt với nhãn hiệu đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó”, khái niệm trừu tượng cần có cách xác định cụ thể tỷ lệ phần trăm giống với nhãn hiệu được bảo hộ về âm thanh, màu sắc, ký tự.
Thứ hai, các văn bản pháp luật sở hữu trí tuệ nên sử dụng đồng nhất thuật ngữ pháp lý. Bộ luật Hình sự và Nghị định 98/2020/NĐ-CP sử dụng thuật ngữ “hàng giả”, “xâm phạm sở hữu công nghiệp”. Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ quy định hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ chỉ bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý và hàng hóa chép lậu, để tránh sự nhầm lẫn thì tên Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ nên sửa đổi thành “hàng hóa giả mạo sở hữu công nghiệp và hàng hóa sao chép lậu”.
Thứ ba, các quy định pháp lý giữa luật chung và luật chuyên ngành cần được xây dựng thống nhất. Luật Sở hữu trí tuệ cần bổ sung biện pháp “yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ” vào Điều 198 để đảm bảo tăng cường thực thi quyền tự bảo vệ của các chủ thể hoặc trong văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện chức năng của các cơ quan nhà nước phải nêu rõ mối liên hệ giữa luật chung và luật riêng (Bộ luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ).
Điều 212 Luật Sở hữu trí tuệ nên sửa đổi nội dung thành “Cá nhân, pháp nhân thương mại thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự” đảm bảo nội dung pháp lý đồng bộ với Điều 225, Điều 226 Bộ luật hình sự (Bộ luật Hình sự và Luật sở hữu trí tuệ).
Thứ tư, Xử lý hành vi đăng ký, chiếm quyền sử dụng, sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự nhãn hiệu, tên thương mại được quy định khác nhau trong các văn bản pháp luật, do đó, cần thiết ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết xung đột tên miền quốc gia liên quan sở hữu công nghiệp có thể giải quyết bằng thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn cần khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp tên miền theo hình thức thương lượng, hòa giải, Tòa án, Trọng tài thương mại thay vì xử lý bằng con đường hành chính để tránh tình trạng bên vi phạm kéo dài thời gian tiếp tục vi phạm để hưởng lợi, chậm thực hiện hoặc cố ý không thực hiện các hình thức xử phạt hành chính mà không có biện pháp pháp lý giải quyết triệt để, lúc này bên bị vi phạm cũng phải khởi kiện giải quyết bằng con đường Tòa án hoặc Trọng tài thương mại. Đối với tranh chấp tên miền quốc gia (không có yếu tố cạnh tranh), tên miền quốc tế liên quan sở hữu công nghiệp thì giải quyết theo phương pháp thương lượng, hòa giải, Tòa án, Trọng tài, vì không thể áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính theo luật quốc gia.
Thứ năm, văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan đã được ban hành, các cơ quan chức năng hiện nay vẫn đang sử dụng Nghị định 22/2018/NĐ-CP thay thế Nghị định 100/2006/NĐ-CP, do vậy, Nghị định 85/2011/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 100/2006/NĐ-CP cũng cần được bãi bỏ.
Thứ sáu, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thống nhất hướng dẫn chi tiết cơ quan đầu mối thụ lý đơn yêu cầu xử lý, phân cấp cho các cơ quan chức năng khác nhau để không mất thời gian phân loại vụ việc, mức độ xâm phạm, thẩm quyền xử lý, hoặc chuyển vụ việc sang các đơn vị chuyên trách. Cơ quan đầu mối giải quyết khiếu nại về đăng ký sở hữu trí tuệ, xác định hành vi xâm phạm có thể giao cho Cục Bản quyền tác giả, Cục Sở hữu trí tuệ. Ở địa phương không có văn phòng đại diện Cục Bản quyền tác giả, Cục Sở hữu trí tuệ thì các chủ thể nộp đơn khiếu nại và nhận kết quả khiếu nại tại Sở Khoa học Công nghệ, Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch, các Sở có trách nhiệm phối hợp với cơ quan đầu mối Cục Bản quyền tác giả, Cục Sở hữu trí tuệ giải quyết vụ việc. Nếu hành vi xâm phạm chưa đến mức xử lý hình sự thì Cục Bản quyền tác giả, Cục Sở hữu trí tuệ chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền (cơ quan Thanh tra, cơ quan Công an, cơ quan Quản lý thị trường) xử lý vi phạm hành chính.
Bên cạnh việc quy định cơ quan đầu mối xử lý, trong quá trình xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử cần bằng con đường Tòa án (nếu chủ thể quyền lựa chọn), văn bản quy phạm pháp luật cần quy định sự phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án với các cơ quan chức năng. Các cơ quan chức năng (cơ quan Thanh tra, cơ quan Công an, Quản lý thị trường, Ủy ban nhân dân các cấp, Cục Bản quyền tác giả, Cục Sở hữu trí tuệ) có trách nhiệm tham gia tố tụng dân sự theo yêu cầu của Tòa án, có nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự, để theo dõi, chuyển hồ sơ, trợ giúp kịp thời cho Tòa án về chuyên môn, kết quả điều tra, kiểm tra, lập số liệu thống kê, xử lý các vấn đề liên quan, đặc biệt là sự trợ giúp của Cục Bản quyền tác giả, Cục Sở hữu trí tuệ trong việc thành lập hội đồng giám định, giới thiệu tổ chức giám định, giới thiệu giám định viên.
Thứ bảy, thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, các quốc gia trên thế giới vẫn luôn nỗ lực đưa ra cách thức bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thế giới phẳng, hữu hiệu nhất vẫn là điều chỉnh bởi luật pháp quốc gia cũng như điều ước quốc tế. Thực tiễn nhiều loại đối tượng quyền sở hữu trí tuệ mới phát sinh, Luật Sở hữu trí tuệ và văn bản pháp lý liên quan cần quy định mở rộng phạm vi bảo hộ đối với tài sản trí tuệ số hóa được thể hiện trên các phương tiện điện tử nâng cao khả năng thực thi bảo vệ các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ mới này, loại bỏ được mối lo ngại cho chủ thể quyền và loại bỏ rào cản phát triển thương mại điện tử Việt Nam.
Thứ tám, mặc dù đã có văn bản hướng dẫn mức xử phạt hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm quyền sở hữu trí tuệ (Nghị định 99/2013/NĐ-CP, Nghị định 131/2013/NĐ-CP), theo đó thì mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân là 250 triệu đồng, đối với tổ chức là 500 triệu đồng (gấp 2 lần mức phạt đối với cá nhân) nhưng mức phạt được cho là “quá nhẹ”. Mức phạt hành chính nên được tính tương ứng theo tỷ lệ mức độ vi phạm giúp biện pháp hành chính hiệu quả, ngăn chặn được hành vi vi phạm.
Thứ chín, biện pháp hành chính góp phần lớn vào giải quyết tình trạng xâm phạm, tuy nhiên các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ nên được sửa đổi theo hướng tăng cường thực thi biện pháp dân sự đảm bảo quyền lợi của chủ thể quyền. Việt Nam gia nhập Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA thì biện pháp dân sự nên được chú trọng áp dụng. Giải quyết vụ việc dân sự về sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử tại Tòa án có tính răn đe cao, có thể khôi phục lợi ích của chủ thể quyền thông qua biện pháp buộc chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại, áp dụng hình phạt, ngăn chặn hành vi xâm phạm hiệu quả hơn biện pháp hành chính. Pháp luật tố tụng dân sự về sở hữu trí tuệ cần được sửa đổi một số nội dung sau:
Thời gian xử lý một vụ án dân sự tính từ khi thụ lý đến khi đưa ra xét xử tại Tòa án khoảng 4 tháng, những vụ án phức tạp thì Chánh án quyết định gia hạn 2 tháng, cho đến khi giải quyết xong vụ án mất khoảng 6 đến 1,5 năm có những vụ việc phải tạm đình chỉ để trưng cầu giám định thì thời gian này kéo dài hơn, nên quy định tổng thời gian tối đa giải quyết vụ án về sở hữu trí tuệ là 6 tháng đáp ứng nhu cầu của các chủ thể.
Đồng thời để giảm bớt thời gian giải quyết vụ án dân sự về sở hữu trí tuệ cần quy định trách nhiệm phối hợp của các cơ quan chức năng, cụ thể trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án có thể gửi văn bản lấy ý kiến hoặc yêu cầu lập hội đồng giám định, giới thiệu tổ chức giám định, giám định viên đến Cục Sở hữu trí tuệ, Cục Bản quyền tác giả, các cơ quan này có nghĩa vụ thực hiện theo yêu cầu của Tòa án trong thời gian nhất định theo từng vụ việc từ 3 ngày đến 5 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu. Văn bản quy phạm pháp luật cũng cần quy định rõ Tòa án có trách nhiệm thông báo vụ việc đến các cơ quan có liên quan để tham gia tố tụng, hỗ trợ trong quá trình xét xử, theo dõi kết quả xét xử, nếu có dấu hiệu vi phạm hình sự thì cơ quan điều tra nhận hồ sơ và chuyển vụ việc giải quyết.
Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện (Khoản 2 Điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự), sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu, trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Khoản 3 Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự). Trong vụ án sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử thì cần phải ngăn chặn càng nhanh càng tốt vì tốc độ lưu truyền, phát tán thông qua mạng internet, viễn thông cao, thời gian 48 giờ để ra quyết định áp dụng đối với biện pháp khẩn cấp tạm thời là quá dài. Riêng về sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử thì thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ nên quy định trong vòng 24 giờ kể từ ngày nhận được yêu cầu vì người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ nộp khoản bảo đảm theo Khoản 2 Điều 208 Luật Sở hữu trí tuệ.
4. Kết luận
Thương mại điện tử Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển nhanh và mạnh làm bùng nổ các dạng thức khác nhau của đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ theo đó cũng bị ảnh hưởng, chủ thể quyền cần nhận thức được tầm quan trọng, lựa chọn phương thức bảo vệ và xử lý hành vi vi phạm phù hợp. Pháp luật sở hữu trí tuệ là một trong những công cụ cung cấp cho chủ thể quyền, cơ quan nhà nước có thẩm quyền năng lực thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả, pháp luật sở hữu trí tuệ cần được hoàn thiện để thực hiện tốt chức năng của mình.
Tài liệu trích dẫn:
[1] Điều 225, Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015
[2] Điều 111, Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
[3] Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi) năm 2009
[4] Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP
[5] Điều 17 Thông tư 24/2015/TT-BTTTT
[6] Điều 19 Thông tư 11/2015/TT-BKHCN
[7] Nguyễn Hải An, Thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/thuc-thi-phap-luat-so-huu-tri-tue-thong-qua-hoat-dong-xet-xu-tai-toa-an, truy cập ngày 23/6/2021