0236.3650403 (128)

TRANH CHẤP TRONG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI


1. Tranh chấp về thỏa thuận ràng buộc

Trường hợp Công ty Ungar và Dunkin Donuts như sau:

Dunkin Donuts bắt đầu với chuỗi cửa hàng nhỏ kinh doanh cà phê và bánh rán ở Anh. Hiện nay Dunkin Donuts là một trong những hệ thống nhượng quyền thương mại lớn nhất nước.

Năm 1972, 14 nhà nhận quyền của Dunkin Donuts, trong đó có công ty Ungar đã đệ đơn lên Tòa án chống lại hãng này. Họ viện ra rằng, Dunkin nhượng quyền sử dụng thương hiệu với điều kiện phải chấp nhận một số hạng mục của họ, và điều này là một thỏa thuận bất hợp pháp theo quy định của luật chống độc quyền. Cụ thể, 4 hạng mục bất hợp pháp gắn với thương hiệu là bất động sản, máy móc thiết bị, các dấu hiệu và nguồn cung cấp. Theo Ungar, Dunkin Donuts đã ngăn họ sử dụng mặt bằng riêng và yêu cầu họ cho thuê hoặc cho thuê lại bằng các điều khoản phiền hà. Trước 1970, Dunkin yêu cầu các nhà nhận quyền phải mua gói trang thiết bị từ bên này, nhưng sau khi sửa đổi mẫu hợp đồng, quy định này đã bị xóa bỏ. Các dấu hiệu và nguồn cung cấp, bên nhận quyền phải nhập trực tiếp từ Dunkin hoặc từ một bên được Dukin chấp thuận. Công ty Ungar cũng như các bên nhận quyền khác đã viện rằng Dunkin Donuts đã triệt tiêu các quyền tự do lựa chon vì bên này chỉ ủng hộ và chấp thuận những người đã bí mật thỏa thuận và trả tiền cho Dunkin Donuts khi ký hợp đồng nhượng quyền, buộc bên nhận quyền phải mua hàng hóa, thiết bị với giá cao.

Đối với loại hình kinh doanh nhượng quyền có tính độc quyền cao. Bên nhượng quyền có quyền yêu cầu bên nhận quyền mua sản phẩm duy nhất từ công ty độc quyền hoặc một nhà cung cấp khác do bên nhượng quyền chỉ định và chấp thuận. Các thỏa thuận ràng buộc là nguyên nhân phổ biến dẫn đến kiện tụng và xung đột giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền.

Có sự phân biệt cơ bản giữa hệ thống nhượng quyền dựa trên sản phẩm, trong đó nhãn hiệu thể hiện sản phẩm cuối cùng được hệ thống đó đưa vào thị trường và hệ thống dựa trên kinh doanh. Trong đó mối quan hệ giữa nhãn hiệu và sản phẩm mà các đại lý bị ép phải mua thường tách rời. Trong hệ thống phân phối dựa trên sản phẩm, thỏa thuận ràng buộc dễ được chấp nhận hơn bởi sản phẩm bị ràng buộc với việc mua sản phẩm là một phần quan trọng trong hệ thống của bên nhượng quyền và liên quan chặt chẽ đến nhãn hiệu được cấp phép cho bên nhận quyền kinh doanh.

Một thỏa thuận ràng buộc trái pháp luật, trong một số trường hợp cụ thể, có thể được công ty nhượng quyền và Tòa án chấp thuận. Tuy nhiên, điều đó chỉ xảy ra nếu Tòa án công nhận thỏa thuận đó là cần thiết để bảo vệ tính đặc trưng, nhất quán về chất lượng sản phẩm.

Trong trường hợp bên nhượng quyền cấp giấy phép cho bên nhận quyền sử dụng nhãn hiệu, thì bên nhượng quyền phải đảm bảo rằng nhãn hiệu đó được sử dụng hợp lý và hợp pháp trong tay bên nhận quyền. Nếu bên nhượng quyền nới lỏng kiểm soát chất lượng bằng cách cho phép bán hàng hóa thứ phẩm thì có thể cấu thành vi phạm sử dụng sai nhãn hiệu hoặc buộc phải loại bỏ nhãn hiệu đó theo luật định. Luật pháp sẽ quyết định mức độ tự ý can thiệp của công ty nhượng quyền và tuyên bố rằng không phải mọi biện pháp để đạt và duy trì chất lượng sản phẩm đều hợp lý. Luật pháp quy định một biện pháp ràng buộc thương mại chỉ được coi là hợp lý khi chưa hoặc không có các phương án khác ít tính ràng buộc.

Nếu thông số chủng loại và chất lượng sản phẩm mà bên nhận quyền sử dụng đạt tiêu chuẩn chất lượng và tính đồng nhất cao theo yêu cầu của bên nhượng quyền thì phương án có tính ràng buộc thấp hơn này sẽ được áp dụng thay vì việc yêu cầu bên nhận quyền chỉ mua các sản phẩm của bên nhượng quyền. Nếu sản phẩm thay thế đòi hỏi thông tin chi tiết không được phép cung cấp (như thông tin đó có thể làm lộ bí mật thương mại hoặc quá phức tạp) thì để bảo vệ thương hiệu, việc áp dụng các hình thức thỏa thuận ràng buộc trong trường hợp khác được coi là trái pháp luật.

Thỏa thuận ràng buộc có hợp pháp hay không phụ thuộc vào việc bên nhượng quyền chứng minh được việc hạn chế các nguồn, các nhà cung cấp và việc loại bỏ các nguồn cung cấp khác là cần thiết và hợp lý để đảm bảo chất lượng, tính đặc trưng và nhất quán của sản phẩm. Ví dụ, trường hợp công ty Ungar Dunkin Donuts, Tòa án đã bác bỏ đề nghị của công ty nhượng quyền vì đó là một khiếu nại ràng buộc trái pháp luật. Tòa án cho rằng, việc yêu cầu các đại lý mua nguyên liệu từ các nguồn cung cấp được chấp thuận có thể cấu thành một thỏa thuận ràng buộc trái pháp luật, nếu xét lý lẽ cáo buộc hệ thống nhà cung cấp được chấp thuận chỉ là một phương tiện kiếm lời bất chính và công ty nhượng quyền không chấp nhận các nhà phân phối mới mặc dù họ có thể đáp ứng mọi yêu cầu.

Cơ sở pháp lý của một thỏa thuận ràng buộc phụ thuộc vào:

  • Yêu cầu chính đáng của công ty nhượng quyền để đảm bảo công tác kiểm soát chất lượng;
  • Sự hiện hữu của phương pháp ít tính ràng buộc hơn nhưng vẫn đảm bảo mục đích kiểm soát chất lượng;
  • Bản chất độc quyền trên thực tế sản phẩm bị quy là “sản phẩm bị ràng buộc”.

Mối quan hệ giữa thương hiệu và sản phẩm phải chặt chẽ để đảm bảo tính hợp pháp của thỏa thuận ràng buộc trên cơ sở kiểm soát chất lượng, tính nhất quán và bảo vệ lợi ích kinh doanh.

Tuy nhiên, một thỏa thuận ràng buộc trên cơ sở kiểm soát chất lượng sẽ không được chấp nhận nếu có các biện pháp ít tính ràng buộc hơn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và tính đồng nhất của sản phẩm.

2. Tranh chấp do thay đổi hệ thống

Hầu hết các nhà nhượng quyền đều tạo ra sự linh hoạt nhất định trong các hợp đồng nhượng quyền để có thể dễ dàng thực hiện các thay đổi hệ thống.

Trong quá trình phát triển mối quan hệ giữa hai bên, có thể có những biến cố hoặc xu hướng đòi hỏi phải thay đổi, ví dụ các điều kiện cạnh tranh mới xuất hiện, sự thay đổi các chính sách của địa phương, tiến bộ công nghệ, sự tăng giảm các nhà cung cấp chính, việc mở các địa điểm thay thế, sáp nhập, mua lại công ty hoặc thay đổi để bổ sung những thiếu sót trong hợp đồng nhượng quyền, đặc biệt là các thay đổi hệ thống. Có thể bên nhượng quyền phải đồng ý và thực hiện theo mẫu hợp đồng nhượng quyền mới. Ví dụ, bên nhượng quyền có thể đặt ra các điều kiện về doanh thu bán hàng của một đơn vị kinh doanh nhượng quyền hoặc bổ sung các điều khoản trong hợp đồng nhượng quyền cũ khi đơn vị kinh doanh nhượng quyền đó nâng cấp để đáp ứng tiêu chí của bên nhượng quyền. Ngoài ra, khi bên nhận quyền mở các đơn vị kinh doanh bổ sung, bên nhượng quyền phải quy định các điều kiện nếu bên nhận quyền đồng ý tuân thủ các điều kiện mới này và hoặc một thỏa thuận tuân thủ một số yếu tố thay đổi cụ thể trong hệ thống. Tuy nhiên, các cơ hội như vậy thường bị hạn chế bởi ngôn ngữ hợp đồng nhượng quyền và mức độ nâng cấp theo yêu cầu.

3. Tranh chấp do vi phạm thỏa thuận cạnh tranh

Hoạt động của hệ thống nhượng quyền thương mại thường dẫn tới hệ quả phân chia thị trường và có thể gây hạn chế cạnh tranh. Hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể quy định về vấn đề “phân chia thị trường”, bao gồm phân chia lãnh thổ (phân chia khu vực kinh doanh) và phân chia khách hàng. Điều này rất có thể bị điều chỉnh bằng luật chống độc quyền. Mỗi một bên nhận quyền đều phải tuân thủ sự phân chia thị trường theo quyết định của bên nhượng quyền, cụ thể là:

  1.  Quy định về phân chia lãnh thổ, thể hiện ở điều khoản về địa điểm bán hàng. Quy định này cấm bên nhận quyền bán hàng ngoài phạm vi của mình. Hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể quy định rằng bên nhận quyền chỉ được khai thác hệ thống nhượng quyền thương mại tại một cơ sở duy nhất, nghĩa là bên nhận quyền này có nghĩa vụ: Không cạnh tranh với bên nhượng quyền và các bên nhận quyền khác trong mạng lưới nhượng quyền thương mại (áp dụng đối với tất cả các kiểu nhượng quyền thương mại); Không dịch chuyển hàng hóa được cung cấp từ điểm bán hàng này sang điểm bán hàng khác (áp dụng chủ yếu đối với kiểu nhượng quyền thương mại phân phối).
  2. Quy định về phân chia khách hàng. Quy định này thường có nội dung như sau: Thứ nhất, cấm bên nhận quyền quảng cáo ngoài phạm của mình. Việc quảng cáo ngoài phạm vi kinh doanh của bên nhận quyền có thể dẫn tới việc dịch chuyển khách hàng, nhất là đối với kiểu nhượng quyền thương mại dịch. Ví dụ: trong lĩnh vực dịch vụ khách sạn, nếu bên nhận quyền quảng cáo cho khách sạn của mình bằng tấm quảng cáo lớn đặt trên đường cao tốc từ sân bay về thành phố thì sẽ thu hút khách hàng của các bên nhận quyền khác. Do đó, bên nhượng quyền phải kiểm soát hoạt động quảng cáo của bên nhận quyền; Thứ hai, bên nhận quyền có nghĩa vụ chỉ bán hàng cho người sử dụng cuối cùng hoặc các bên nhận quyền khác. Quy định này cấm bên nhận quyền bán lại hàng mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền cho các nhà kinh doanh bán lẻ không phải là thành viên của hệ thống nhượng quyền thương mại; Thứ ba, cấm bên nhận quyền bán lại hàng không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Khó có thể chấp nhận được quy định này dưới góc độ tự do cạnh tranh. Quy định này vi phạm luật cạnh tranh ở các điểm vi phạm quyền kinh doanh độc lập của bên nhận quyền trong việc quyết định bán hàng cho ai, hạn chế nguồn cung của bên thứ ba. Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018 của Việt Nam, các thỏa thuận về phân chia thị trường nêu trên có thể bị coi là thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ, một trong các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
  3.  Ngoài ra, thường thấy trong hợp đồng nhượng quyền thương mại quy định về ấn định giá bán cho các thành viên của hệ thống nhượng quyền thương mại. Luật Cạnh tranh 2018 quy định thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp là một trong các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việc quy định về phân chia thị trường và hạn chế cạnh tranh giữa các thành viên trong hệ thống nhượng quyền thương mại là một trong những yếu tố đặc trưng truyền thống của hệ thống nhượng quyền thương mại. Một số giáo sư Hoa Kỳ có đặt ra một câu hỏi mở rất thực tế: liệu sự cạnh tranh giữa các thành viên trong hệ thống nhượng quyền thương mại có quan trọng bằng sự cạnh trang với các đối thủ có thương hiệu khác. Nếu câu trả lời là không thì các luật sư có thể tư vấn cho khách hàng của mình, không nên thỏa thuận về phân chia thị trường và hạn chế cạnh tranh giữa các thành viên trong hệ thống nhượng quyền thương mại để tránh “tầm” điều chỉnh của Luật Cạnh tranh.
  4. Hợp đồng nhượng quyền thường có phần yêu cầu bên nhận quyền lựa chọn địa điểm kinh doanh. Nhìn chung bên nhượng quyền sẽ hỗ trợ bên nhận quyền một số phương diện khi lựa chọn địa điểm và có quyền từ chối địa điểm mà bên nhận quyền lựa chọn. Những yếu tố cần được bên nhượng quyền xem xét bao gồm: kích thước, sự phù hợp của địa điểm và khu vực xung quanh với loại hình kinh doanh của doanh nghiệp, những khu vực đổ xe phù hợp, chi phí phát triển doanh nghiệp, khu vực và đường giao thông, các khu vực gần kề và lối ra vào chính, sự tương thích với các doanh nghiệp khác trong khu vực và khoảng cách tới các doanh nghiệp cạnh tranh khác. Bên nhận quyền thường hy vọng được hỗ trợ lựa chọn địa điểm kinh doanh và sẽ tuân thủ những điều trong hợp đồng. Thông thường đại lý nhận quyền sẽ được trao một khu vực để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Theo đúng hợp đồng thì bên nhượng quyền không được phép mở thêm một đại lý khác trong khu vực này. Khu vực này thường được xác định bằng số dân hoặc một vài yếu tố địa lý như mã số bưu chính hoặc diện tích khu vực bao quanh địa điểm kinh doanh. Bên nhượng quyền có xu hướng cho phép bên nhận quyền hiện tại từ chối không mở rộng kinh doanh ra quanh khu vực đó, nhưng sự khó khăn trong việc tìm ra địa điểm hợp lý để kinh doanh tạo ra một số hạn chế với bên nhượng quyền. Bên nhượng quyền sau đó sẽ không được bán hàng tại các khu vực nhất định trừ khi đưa ra những thông báo cụ thể. Việc bên nhượng quyền không theo đúng các quy định cho phép và không đưa ra được những thông báo phù hợp cho đại lý nhận quyền sẽ rất dễ dẫn tới kiện tụng, và Tòa án thường rất nghiêm khắc đối với những vụ việc như vậy.
  5. Vấn đề dẫn tới nảy sinh kiện tụng nhiều là sự lấn chiếm địa bàn trong hoạt động kinh doanh. Thông thường, các vụ như vậy bắt nguồn từ việc bên nhượng quyền bị buộc tội cạnh tranh với bên nhận quyền bằng cách mở các doanh nghiệp khác (dưới dạng nhượng quyền thương mại hoặc sở hữu của công ty) gần địa điểm kinh doanh của bên nhận quyền. Tình huống này thường nảy sinh khi bên nhượng quyền tạo ra một hệ thống kinh doanh nhượng quyền mới. Khi sự việc xảy ra, bên nhượng quyền thường cho rằng bên nhượng quyền đã tuyên bố các điều khoản hợp đồng giữa hai bên với ngôn ngữ đa nghĩa hoặc tối nghĩa hay công ty nhượng quyền không tuân thủ hợp đồng.

Một trường hợp điển hình là, nếu hợp đồng nhượng quyền thương mại cấm bên nhượng quyền tổ chức một doanh nghiệp cạnh tranh dưới cùng một tên, thì việc vận hành doanh nghiệp cạnh tranh dưới cùng một cái tên khác cũng vi phạm hợp đồng. Để tránh những tranh chấp về nhượng quyền thương mại, hai hệ thống cạnh tranh với nhau như vậy cần phải hoạt động tách rời hệ thống và không được phép chia sẻ thông tin bí mật liên quan tới kinh doanh. Một lý do nữa khiến cho bên nhận quyền cho rằng mình bị xâm phạm quyền lợi là khi hợp đồng không cho phép bất kỳ sự bảo vệ theo địa bàn nào. Về cơ bản, quan điểm này cho rằng sự vận hành của một doanh nghiệp cạnh tranh (dưới bất kỳ cái tên nào) đều có khả năng ảnh hưởng tiêu cực tới đại lý nhận quyền hiện tại. Điều này sẽ vi phạm yêu cầu tin cậy lẫn nhau vốn được ngầm hiểu trong từng hợp đồng.

4. Tranh chấp về nhượng quyền cho bên thứ ba

Năm 1997, công ty Basco đã nộp đơn kháng cáo lên Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ khi bị buộc tội chống lại chủ thương hiệu, vi phạm hợp đồng, can thiệp lợi nhuận kinh doanh.

Năm 1990, chủ công ty Basco là Barbara Schonwetter đã ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại với công ty Buth-Na Bodhaige và trở thành bên nhận quyền cho thương hiệu Body Shop của công ty này. Trong bản hợp đồng nhượng quyền quy định: (1) Bên nhận quyền lựa chọn vùng hoạt động kinh doanh nhượng quyền là trung tâm thành phố; (2) Body shop cho phép bên nhận quyền mở bất cứ cửa hàng nào hoặc những người khác vận hành Body Shop ở bất cứ địa điểm bán lẻ nào ngoài trung tâm thành phố và (3) Quan hệ giữa hai bên không phải là quan hệ ủy thác.

Cũng trong năm 1990, một thời gian ngắn sau khi nhận nhượng quyền, Basco đã nhượng quyền cho bên thứ ba là Bruce Carter. Theo hợp đồng nhượng quyền, Body Shop có thể từ chối chấp nhận nhượng quyền cho bên thứ ba nếu bên này không đáp ứng được các tiêu chuẩn đặt ra, bao gồm thiếu kinh nghiệm, từ chối hoàn thành đào tạo và không tiến hành kinh doanh đủ thời gian…Body Shop đã đánh giá bên thứ ba không có đủ những tiêu chuẩn trên, thậm chí không đáp ứng được yêu cầu tài chính và đã bị Body Shop từ chối. Basco đã dựa trên thông tin của những nhà nhận quyền khác và cho rằng Body Shop cố ý từ chối bên thứ ba này, và rằng bên này hoàn toàn đáp ứng đủ các tiêu chuẩn.

Theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam, bên nhận quyền có quyền nhượng quyền lại cho bên thứ ba (gọi là bên nhận lại quyền), nếu được sự chấp thuận của bên nhượng quyền, đồng thời bên dự kiến nhận quyền đó muốn được nhận quyền phải có đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại.

Bên nhận quyền phải gửi yêu cầu bằng văn bản về việc chuyển giao quyền thương mại cho bên nhượng quyền trực tiếp. Bên nhượng quyền trực tiếp phải có văn bản trả lời trong đó nêu rõ bên này chấp thuận hoặc từ chối việc chuyển giao quyền thương mại của bên nhận quyền trong vòng mười lăm ngày từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của bên nhận quyền. Nếu sau mười lăm ngày mà bên nhượng quyền không có văn bản trả lời thì được coi là chấp thuận việc chuyển giao quyền thương mại của bên nhận quyền.

Trong trường hợp bên nhượng quyền từ chối yêu cầu của bên nhận quyền thì việc từ chối đó phải dựa trên các lý do:

  • Bên dự kiến nhận quyền chuyển giao không đáp ứng được các nghĩa vụ tài chính mà bên dự kiến nhận quyền chuyển giao phải thực hiện theo hợp đồng nhượng quyền thương mại;
  • Bên dự kiến nhận quyền chuyển giao chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn lựa chọn của bên nhượng quyền trực tiếp;
  • Việc chuyển giao quyền thương mại sẽ có ảnh hưởng bất lợi đối với hệ thống nhượng quyền thương mại hiện tại;
  • Bên dự kiến nhận quyền chuyển giao không đồng ý bằng văn bản sẽ tuân thủ các nghĩa vụ của bên nhận quyền theo hợp đồng nhượng quyền thương mại;
  • Bên nhận quyền chưa hoàn thành các nghĩa vụ đối với bên nhượng quyền trực tiếp, trừ trường hợp bên dự kiến nhận chuyển giao cam kết bằng văn bản thực hiện các nghĩa vụ đó thay cho bên nhận quyền (Điều 15 của Nghị định 35/2006/NĐ-CP).

Những quy định này về cơ bản chỉ áp dụng trong trường hợp nhượng quyền đơn lẻ, theo đó khi chuyển giao quyền cho bên thứ ba thì bên chuyển giao quyền, tức là bên nhận quyền ban đầu sẽ mất quyền thương mại đã chuyển giao. Mọi quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền thương mại của bên chuyển giao được chuyển cho bên nhận chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.