0236.3650403 (128)

Giới thiệu về tập quán thương mại quốc tế Incoterms


1. Incoterms là gì?

IncoTerms 2020 Là Gì? - Velotrade

Incoterms là viết tắt của cụm từ International Commercial Terms (Điều khoản thương mại quốc tế). Incoterms là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế được xuất bản bởi Phòng thương mại quốc tế (ICC - International Chamber of Commerce), và được công nhận, sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Incoterms quy định những quy tắc về trách nhiệm và giá cả cho các bên (bên xuất khẩu & bên nhập khẩu) trong một giao dịch hàng hóa quốc tế.

Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế có sự phức tạp về việc vận chuyển và các thủ tục liên quan, vì vậy bộ quy tắc Incoterms ra đời giúp các doanh nghiệp ở các nước khác nhau có thể dễ dàng giao dịch, thỏa thuận với nhau. Incoterms đã quy định rất rõ ràng công việc của nhà xuất khẩu & nhà nhập khẩu, nhưng Incoterms không phải là luật do nhà nước ban hành, mà là các hướng dẫn được các bên trong hợp đồng đồng ý. Người mua và người bán phải đồng ý với trách nhiệm của mỗi bên, cũng như chi phí và rủi ro của một lô hàng trước khi quá trình xuất nhập khẩu diễn ra.

Chính vì vậy, những quy tắc đề ra trong incoterms không mang tính chất bắt buộc, việc sử dụng incoterms hoàn toàn phụ thuộc vào thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng ngoại thương.

Do đó, doanh nghiệp có thể vận dụng linh hoạt các điều kiện Incoterms cho phù hợp với thực tế mua bán giữa bên xuất khẩu & nhập khẩu. Doanh nghiệp nên căn cứ theo đặc điểm này của Incoterms để làm việc với các bên đối tác, tránh những hiểu lầm không đáng có về việc sử dụng Incoterms. 

2. Quá trình hình thành và phát triển của Incoterms

Từ cuối thế kỷ XIX, để làm rõ sự phân chia trách nhiệm, chi phí và rủi ro liên quan đến việc giao nhận hàng hóa, các thương nhân đã sử dụng các điều kiện thương mại bằng những ký hiệu viết tắt để đưa vào hợp đồng mua bán như FOB và CIF.

Tuy nhiên, ở các khu vực thị trường khác nhau và trong những ngành hàng buôn bán khác nhau, các điều kiện thương mại quốc tế được gọi là Incoterms hay Intraterms được giải thích theo những cách khác nhau. Thông thường, các bên đều không hiểu hết được những sự khác nhau trong tập quán buôn bán ở mỗi khu vực hay trong ngành buôn bán. Điều này rất dễ dẫn đến những hiểu lầm và xảy ra tranh chấp. Vì lý do này, rất cần thiết phải phát triển những quy tắc để giải thích những điều kiện thương mại mà các bên tham gia hợp đồng mua bán có thể thỏa thuận áp dụng.

- Năm 1923: Hình thành ý tưởng về thống nhất quy tắc thương mại.

- Năm 1919, Phòng thương mại quốc tế (ICC) được thành lập với nhiệm vụ quan trọng là tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế. Ngày đầu năm 1920, ICC đã tiến hành tập hợp những thuật ngữ thương mại được các thương nhân sử dụng trên toàn cầu. Kết quả cho thấy có khoảng 06 thuật ngữ chuyên dùng tại 13 quốc gia. Kết quả nghiên cứu này được công bố vào năm 1923 và giải thích chi tiết đặc điểm của từng thuật ngữ.

- Năm 1928: ICC thực hiện cuộc khảo sát toàn cầu lần thứ hai, sau đó đã mở cộng công tác diễn giải và thống nhất các thuật ngữ được sử dụng phổ biến tại 30 quốc gia.

- Năm 1936: ICC xây dựng Bộ quy tắc Incoterms thành cẩm nang hướng dẫn sử dụng cho thương nhân trên phạm vi toàn cầu. Căn cứ vào kết quả khảo sát, ICC ban hành Bộ quy tắc thương mại quốc tế đầu tiên bao gồm các quy tắc FAS, FOB, C&F, CIF, Ex Ship và Ex Quay.

- Năm 1953: Nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt, phiên bản Incoterms 1953 ra đời gồm 09 quy tắc: FAS, FOB, FOR, FOT, C&F, CIF, Ex Ship, Ex Quay và DCP, bổ sung thêm ba quy tắc so với Incoterms 1936 để áp dụng cho phương thức vận tải không phải bằng đường biển, đó là DCP, FOR và FOT.

- Năm 1967: Incoterms bổ sung hai điều kiện giao hàng tại nơi đến là DAF và DDP, có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải, kể cả vận tải đa phương thức. Phiên bản Incoterms 1967 gồm 11 quy tắc.

- Năm 1976: Bổ sung điều kiện FOA (Free on Board Airport) dành riêng cho vận tải hàng không. Phiên bản Incoterms 1976 gồm 12 quy tắc.

- Năm 1980: ICC cập nhật Incoterms nhằm đáp ứng sự tăng trưởng mạnh mẽ của vận tải hàng hóa đóng trong container. Phiên bản Incoterms 1980 bổ sung thêm một quy tắc mới là FRC (Giao cho người chuyên chở tại điểm giao hàng quy định). Phiên bản Incoterms 1980 gồm 13 quy tắc.

- Năm 1990: Ban hành phiên bản đầy đủ, toàn diện bao gồm 13 quy tắc: EXW, FCA, FOB, FAS, CFR, CIF, CPT, CIP, DAF, DES, DEQ, DDU, DDP. Phiên bản này cũng bổ sung các quy định về chứng từ điện tử.

- Năm 2000: ICC thông qua việc thống nhất nghĩa vụ thông quan xuất nhập khẩu cho hàng hóa đối với người bán và người mua. Phiên bản này vẫn giữ nguyên 13 quy tắc như Incoterms 1990 đó là EXW, FCA, FOB, FAS, CFR, CIF, CPT, CIP, DAF, DES, DEQ, DDU, DDP.

- Năm 2010: Phiên bản Incoterms 2010 tiếp cận đầy đủ các xu hướng mới trong thương mại hàng hóa với 11 quy tắc: EXW, FCA, FOB, FAS, CFR, CIF, CPT, CIP, DAT, DAP, DDP. Để các thương nhân tập trung vào phương thức vận tải khi lựa chọn quy tắc Incoterms phù hợp, Incoterms 2010 bỏ qua cách trình bay theo bốn nhóm E, F, C, D mà chỉ trình bày hai nhóm theo phương thức vận tải.

- Năm 2020: Phiên bản Incoterms mới nhất 2020.

3. Đặc điểm của Incoterms

–  Incoterms là tập quán thương mại, không có tính chất bắt buộc. Chỉ khi nào các bên tham gia hợp đồng quy định sử dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa thì nó mới trở thành điều kiện bắt buộc, ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng.

–  Incoterms chỉ giải thích những vấn đề chung nhất có liên quan đến việc giao hàng, như việc bên nào có nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải hoặc mua bảo hiểm, khi nào người bán giao hàng cho người mua và phân chia chi phí cho các bên ra sao. Song các vấn đề khác như giá cả, phương thức thanh toán, việc bốc, xếp, dỡ hàng hóa, lưu kho, lưu bãi thì tùy theo vào thỏa thuận của các bên thể hiện trong hợp đồng hoặc theo tập quán cảng, tập quán ngành kinh doanh, tập quán của nước sở tại của các bên tham gia mua bán.

–  Hai bên mua bán có thể tăng giảm trách nhiệm, nghĩa vụ cho nhau tùy thuộc vào vị thế mạnh (yếu) trong giao dịch nhưng không được làm thay đổi bản chất điều kiện cơ sở giao hàng. Việc tăng, giảm trách nhiệm, nghĩa vụ (nếu có) cần phải được cụ thể hóa trong hợp đồng mua bán.

–  Incoterms chỉ xác định thời điểm di chuyển rủi ro hàng hóa từ người mua đến người bán chứ không xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa, cũng như hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này thường được quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng hoặc trong luật điều chỉnh hợp đồng. Các bên cũng cần biết rằng luật địa phương được áp dụng có thể làm mất hiệu lực bất cứ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện Incoterms đã được lựa chọn trước đó. học nghiệp vụ quản trị nhân sự

–  Tùy thuộc vào việc hàng hóa được chuyên chở bằng phương tiện nào (đường không, đường biển, đường bộ, v.v), loại hình nào (hàng rời, container, sà lan, v.v) thì có những nhóm điều kiện tương ứng.

–  Các phiên bản ra đời sau không phủ nhận tính hiệu lực của các phiên bản trước. Chính vì vậy, mà khi sử dụng thì cần phải ghi rõ áp dụng Incoterms phiên bản nào để đối chiếu, để xác định trách nhiệm của các bên.