MỘT VÀI KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT DO CHẬM THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN (Phần 1)

17/03/2018

MỘT VÀI KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT DO CHẬM THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN (Phần 1)

Nguyễn Thị Thu Hồng*

Trịnh Tuấn Anh**

*,**Khoa Luật, Đại học Duy Tân

1. Quy định thống nhất căn cứ tính lãi suất chậm trả trong BLDS và luật chuyên ngành liên quan

Hiện tại, khi căn cứ vào BLDS 2015, lãi suất chậm trả sẽ được tính như sau:

Nếu mua bán hàng, chậm thanh toán: lãi suất chậm trả =<20%/năm, nếu các bên có thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận, lãi suất chậm trả =<10%/năm . (Khoản 3 Điều 440 và Điều 357)

Trong hợp đồng vay tài sản

  • Nếu là hợp đồng vay không có lãi

Lãi suất chậm thanh toán =<10%/năm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (Khoản 4 Điều 466)

  • Nếu là hợp đồng vay có lãi

Lãi trên nợ gốc thì lãi suất chậm thanh toán =<10%/năm (Khoản 5 Điều 466)

Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả thì thì lãi suất chậm thanh toán=150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Như vậy, chỉ riêng trong BLDS 2015 đã có sự phân biệt trong cách tính lãi suất chậm trả, nhất là trong hoạt động vay tài sản. Trên thực tế, không chỉ có BLDS điều chỉnh về lãi suất mà còn có các luật chuyên ngành điều chỉnh. Tuy nhiên, các quy định của luật chuyên ngành lại mẫu thuẫn với BLDS.

Ngày 16/6/2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật các tổ chức tín dụng (luật số 47/2010/QH12). Tại Khoản 2 điều 91 Luật này qui định trực tiếp về lãi suất thỏa thuận, không điều chỉnh thông qua các văn bản dưới luật như trước đây. Tuy nhiên, luật các tổ chức tín dụng 2010 lại không đề cập đến lãi suất đối với khoản nợ quá hạn, như vậy các bên quan hệ tín dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp vẫn áp dụng khoản 5 Điều 466 BLDS 2015 hoặc khoản 4 điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN. Trở lại với hai căn cứ áp dụng lãi suất nợ quá hạn đối với khoản nợ gốc quá hạn này, lại đặt ra mối quan hệ luật chung và luật chuyên ngành và giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật.

Tại văn bản hướng dẫn này, nên quy định rõ lãi suất đối với khoản nợ quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn trong hợp đồng tín dụng, trừ trường hợp các bên có thuận khác. Với hướng dẫn cụ thể trong luật chuyên ngành như vậy, các TCTD sẽ không bị thiệt thòi khi có tranh chấp, vì Tòa án sẽ có cơ sở để không áp dụng lãi suất cơ bản trong tính lãi suất nợ quá hạn. Sỡ dĩ cần làm như vậy vì đây là một quan hệ dân sự đặc thù, có luật chuyên ngành điều chỉnh sẽ sâu sát hơn với thực tế so với BLDS. Mặt khác, trên thực tế, các TCTD áp dụng Thông tư 39/2016/TT-NHNN để tính lãi suất quá hạn, và chỉ có những hợp đồng bị tranh chấp mới phát sinh lãi suất nợ quá hạn, còn những hợp đồng khác với khách hàng vẫn áp dụng cách tính lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lại suất cho vay trong hạn. Nghĩa là quy định của BLDS chỉ có thể điều chỉnh một bộ phận trong số lượng lớn các hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng vay vốn, chưa thực sự có sức ảnh hưởng nhiều và hiệu quả trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng.

BLDS 2015 và Luật thương mại 2005 đưa ra hai cơ sở để làm căn cứ tính tiền phạt chậm trả khác nhau.

Khoản 2 Điều 357 BLDS quy định: “Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”

Trong đó Điều 306 LTM 2005 lại qui định:“Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định khác.”

Theo qui định BLDS, LTM thì có hai cách tính tiền phạt chậm trả, theo đó do các bên tự do thỏa thuận nhưng không được vượt quá trần 20%/năm, bởi lẽ nếu căn cứ vào lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường như qui định của Luật thương mại năm 2005 thì các bên lại phải trả qua giai đoạn xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình, sẽ tốn thời gian, cơ quan tài phán cũng gặp khó khăn hơn khi giải quyết vụ việc nếu có tranh chấp xảy ra.

Tuy nhiên, sẽ có nhiều ý kiến trái chiều, trong đó nhiều ý kiến cho rằng ý nghĩa của việc phạt trả chậm nhằm hạn chế chủ thể có nghĩa vụ Chậm thanh toán theo nghĩa vụ  của mình; mặt khác, đó là hình thức chế tài buộc người vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm vì hành vi vi phạm pháp luật của mình. Việc qui định chỉ có một cách thức tính tiền phạt sẽ hạn chế quyền của bên bị vi phạm hơn so với dựa trên cơ sở lãi suất nợ quá hạn trung bình tên thị trường (vì lãi suất nợ quá hạn cao hơn lãi suất cơ bản). Vì thế, với quan điểm này, tác giả đã đưa ra kiến thứ hai là pháp luật vẫn qui định nhiều cách thức phạt trả chậm, nhưng khi áp dụng các bên chỉ được lựa chọn một cách thức phạt đối với một khoản nợ chậm trả để đảm bảo lợi ích của bên vi phạm nghĩa vụ.

2. Bổ sung quy định về lỗi suy đoán trong việc chứng minh thiệt hại và Lãi suất do chậm thanh toán đương nhiên phát sinh

Khi bị thiệt hại, bên có quyền có phải chứng minh đã bị thiệt hại khi yêu cầu trả lãi suất không,bởi vì để quy trách nhiệm pháp lý cho chủ thể vi phạm thì cần chứng mình chủ thể có đủ dấu hiệu cấu thành VPPL, trong đó có việc chứng minh thiệt hại do hành vi VPPL gây ra và chứng minh yếu tố lỗi ( chủ thể vi phạm đã có lỗi ). PLVN không có quy định ra như vậy. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử các Tòa án đều không buộc bên có quyền (bên được thanh toán) phải chứng minh là có thiệt hại xảy ra và được thực hiện bởi hành vi có lỗi mới được yêu cầu lãi chậm trả. Tòa án lập luận rằng trong luật thực định thì các quy định luật thương mại và BLDS đều cho phép bên có quyền được hưởng lãi chậm trả mà không cần yêu cầu chứng minh họ có thiệt hại từ việc chậm trả. Nghiên cứu so sánh thấy rằng trong một số hệ thống pháp luật, luật thực định nói rõ là bên có quyền không phải chứng minh yếu tố này. Chẳng hạn, theo khoản 2 điều 1153 BLDS Pháp được bên có quyền được quyền yêu cầu trả Lãi suất do chậm thanh toán  và không cần chứng minh có mất mát gì. Chính vi vậy trong luật thương mại sửa đổi cần quy định rằng:” bên có quyền được quyền yêu cầu trả Lãi suất do chậm thanh toán  và không cần chứng minh có mất mát gì[1]”.

Ngoài ra, theo quy định của Điều 306 LTM 2005:“Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Điều khoản này được hiểu là trong trường hợp các bên có thỏa thuận về Lãi suất do chậm thanh toán , trường hợp các bên không có thỏa thuận thì có áp dụng Lãi suất do chậm thanh toán  không? Trước kia trong thực tiễn xét xử đã có sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật giữa các tòa án. Trong bản án số 421/2008/DS-PT của TAND Tp Hồ Chí Minh, Tòa án đã buộc bên mua phải trả cho bên bán một khoản tiền lãi. Về phía mình tòa án đã cho rằng: Trong trường hợp cụ thể của một vụ án nói trên thuộc loại án tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản ngoài việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán,các đương sự không có thỏa thuận nào khác. Như vậy trong trường hợp này, mức lãi suất được tính là 28.000.000 x 0,6875%/tháng x 12 tháng =2.316.900 đồng. Như vậy, trong bản án này, Lãi suất do chậm thanh toán  phát sinh khi ngay cả các bên không có thỏa thuận về vấn đề nay. Tuy nhiên trong bản án số 18/KDTM-PT TAND Tp Hồ Chí Minh thì tòa án lập luận rằng không tồn tại giữa họ một thỏa thuận về Lãi suất do chậm thanh toán  nên họ không có trách nhiệm trả lãi. Chẳng hạn theo TAND tỉnh Khánh Hòa: Tại giấy mượn tiền ngày 25/11/2001, bà Lê cam kết sẽ thanh toán nợ cho vợ chồng ông Huỳnh vào cuối tháng 12 âm lịch năm 2002; nhưng đến hạn bà Lê lại không thực hiện đúng thỏa thuận như đã cam kết. Do đó TAND đã buộc bà Lê phải thực hiện đúng như cam kết, ngoài ra phải thanh toán cả phần lãi suất do chậm trả. Khi kháng cáo, bên mượn tiền chỉ đồng ý trả nợ gốc và không đồng ý trả lãi với lý do giữa hai bên không có thỏa thuận lãi. Tòa phúc thẩm xác định đây là hợp đồng mượn tài sản chứ không phải hợp đồng vay, và chấp nhận kháng nghị của bên mượn tiền bởi vì trong hợp đồng mượn tài sản không có yêu cầu các bên phải trả lãi nếu không có thỏa thuận. Chính vì vậy về cả lý thuyết và thực tiễn xét xử cần thừa nhận rằng Lãi suất do chậm thanh toán  đương nhiên được áp dụng, không cần các bên phải thỏa thuận trước ngay cả đối với nghĩa vụ trả tiền vay, bởi vì thực tiễn xét xử có sự khác biệt giữa hợp đồng vay (yêu cầu có thỏa thuận) và các nghĩa vụ thanh toán khác là rất khó xác định và lý giải vì vậy để thuận lợi cho quá trình áp dụng nên bỏ yêu cầu có thỏa thuận cho hợp đồng vay.

 

[1] Francis Lemeunier (1993), Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, NXB Chính trị quốc gia, 1993, Hà Nội.